Phú Thọ: Có hay không việc “bảo kê” bản án dân sự số 14? (kỳ 2)

Như đã đề cập ở kỳ trước, Công ty Phú Hải được Nhà nước cho thuê đất theo phương thức trả tiền hàng năm nhưng lại trả tiền thuê đất một lần là không đúng quy định.
Phú Thọ: Có hay không việc “bảo kê” bản án dân sự số 14? (kỳ 2)

Chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê là sai luật

Theo ông Nhâm, việc xác định Công ty Phú Hải được Nhà nước cho thuê đất theo phương thức trả tiền hàng năm hay là trả tiền một lần cho cả thời gian thuê có ý nghĩa trong việc xác định có được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê hay không. Căn cứ vào quy định của hợp đồng thuê đất và pháp luật đất đai (như đã phân tích trên) thì đây là hình thức hợp đồng cho thuê đất trả tiền hàng năm chứ không phải trả tiền 1 lần cho cả thời hạn thuê.

Do vậy, Công ty Phú Hải chỉ có quyền chuyển nhượng tài sản của mình gắn liền với đất thuê chứ không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê (Điều 78d Luật đất đai 1993 sửa đổi bổ sung, tương ứng với Điều 111 Luật đất đai 2003).

Trong khi đó, đất và tài sản trên đất của Công ty Phú Hải là tài sản sở hữu tập thể, của chung của các cổ đông trong doanh nghiệp. Do vậy, “Giám đốc công ty, Công ty Phú Hải không có quyền tự ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê, khi không có Quyết định của ĐHCĐ hoặc HĐQT. Kể cả có đủ 2 điều kiện này Công ty Phú Hải cũng không có quyền chuyển nhượng nên hợp đồng chuyển nhượng giữa Công ty Phú Hải với Công ty Phú Gia được công chứng tại Văn phòng Công chứng Hùng Minh là vô hiệu” – ông Nhâm một lần nữa khẳng định.

Điều đáng nói, hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/11/2011 nêu trên có nội dung trái với biên bản họp đại hội đồng cổ đông ngày 19/11/2011 và Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông Công ty Phú Hải ngày 21/11/2011, cụ thể:

Theo Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, hội đồng cổ đông thống nhất cho cổ đông Phạm Văn Toan bán 46% cổ phần có trong công ty cho người ngoài không phải là cổ đông công ty và không có nội dung chuyển nhượng đất và tài sản trên đất cho công ty khác. Tuy nhiên Giám đốc Công ty  Phú Hải tự ý ký hợp đồng chuyển nhượng đất và tài sản trên đất nêu trên cho Công ty Phú Gia Phú Thọ (đã được thành lập và cấp đăng ký kinh doanh từ ngày 28/10/2011). Điều này trái với Nghị quyết của Công ty nên không có cơ sở công nhận hợp đồng chuyển nhượng này là đúng pháp luật.

Chính vì vậy, Toà án cấp phúc thẩm giải quyết công nhận văn bản công chứng của Văn phòng Công chứng Hùng Minh (về việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng nêu trên) hợp pháp là không có căn cứ. 

Có hay không “bảo kê” bản án dân sự số 14?

Ông Nhâm cho biết, ông đã nhận được thông báo số 214/TB-VC1-DS đề ngày 20/5/2016 của vụ C1, Viện Kiểm sát ND Tối cao, do ông Phạm văn Hòa ký gửi. Ngày 25/4/2017, ông tiếp tục nhận được văn bản số 69/TB - GĐKT II đề ngày 30/3/2017 của TAND Tối Cao về việc thông báo giải quyết đơn đề nghị Giám đốc thẩm của công ty Phú Hải. Tiếp đến ngày 19/4/2019, doanh nghiệp Phú Hải nhận được thông báo số 145/TB-Vụ 9 đề ngày 17/4/2019, do ông Lê Thành Dương ký.

Tuy nhiên ông Nhâm không đồng ý 3 văn bản trên bởi ông cho rằng, các văn bản ra đời với mưu đồ bảo kê bản án số 14, ngày 18/3/2014 của TA tỉnh Phú Thọ với tính chất triệt thoái luật pháp Nhà nước, coi thường Điều Lệ doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp, thủ tiêu Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Công chứng…và các Bộ Luật cũng như các quy định luật pháp mà Nhà nước đề ra.

Chính vì vậy, mới đây ông Vũ Hồng Nhâm tiếp tục gửi đơn, khẩn thiết mong Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng can thiệp, yêu cầu Thanh tra Chính phủ điều tra vụ án “để được xét xử minh bạch trước pháp luật tại toà Giám đốc thẩm hoặc Tái thẩm, nhằm xử lý nghiêm minh những cá nhân tập thể đã triệt thoái Luật pháp nhà nước, bảo kê đường dây án bỏ túi trong vụ án trên”.

Ông Nhâm cũng đề nghị đến Viện trưởng VKSND TC, Chánh án TAND TC ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; huỷ bản án đối với bản án phúc thẩm số 14/2014/DSPT ngày 18/03/2014 của TAND tỉnh Phú Thọ, vì văn bản công chứng số 193 ngày 24/11/2011 của Văn phòng công chứng Hùng Minh soạn thảo và xác lập là vô hiệu, không có giá trị pháp lý như đã phân tích trên.

Ông Vũ Hồng Nhâm cũng mong vụ án sớm được giải quyết để Công ty Phú Gia trả lại đất đai và tài sản trên đất, kho vật tư phục vụ kinh doanh và bồi thường thiệt hại kho tài liệu tài chính kế toán của DN từ năm 2003 đến hết năm 2011 (do đơn vị này chiếm đoạt của DN và đã hủy hoại) cho Công ty Phú Hải. 

Thương Gia sẽ tiếp tục thông tin vụ việc này tới bạn đọc.

>> Phú Thọ: Đơn kháng án giám đốc thẩm của công dân tiếp tục bị phớt lờ (kỳ 1)

Có thể bạn quan tâm