Sai phạm về đất đai, huyện Đất Đỏ đã khắc phục ra sao?

Mới đây, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu đã kỷ luật khiển trách đối với Chủ tịch huyện Đất Đỏ nhiệm kỳ 2015-2020 và một số cá nhân do những sai phạm liên quan đến đất đai. Đáng chú ý, việc khắc phục hậu quả của UBND huyện Đất Đỏ...
Sai phạm về đất đai, huyện Đất Đỏ đã khắc phục ra sao?

Tháng 9/2017, Sở TN&MT tỉnh ban hành Kết luận thanh tra 4637/KL-STNMT về việc chấp hành pháp luật trong quản lý, sử dụng đất và thực hiện các loại thủ tục hành chính về đất đai đối với UBND huyện Đất Đỏ. Trong đó, có một số yêu cầu đáng chú ý như sau.

Yêu cầu huyện Đất Đỏ khắc phục hậu quả, tồn tại trong việc giao đất ở không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với 235 trường hợp giao đất trên địa bàn huyện theo quy định pháp luật; Báo cáo kết quả xử lý cho UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trước tháng 11/2017.

Khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu ở phần III Kết luận này trong việc thực hiện các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền quy định (cụ thể là việc giao 60 lô đất cho 43 người tại dự án khu dân cư thu nhập thấp xã Phước Hải – trong đó có một số trường hợp đương chức trong Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa X, nhiệm kỳ 2010-2015).

Thực hiện Kết luận thanh tra 4637 ngày 25/9/2017 của Sở TN&MT, UBND huyện Đất Đỏ tới giữa năm 2020 đã có một số bước khắc phục cụ thể.

Điển hình, huyện Đất Đỏ đã ban hành 56 quyết định thu hồi đất và đã bàn giao quyết định thu hồi đất trên cho các đối tượng được giao đất, thu hồi đất. “Còn 179 trường hợp chưa được UBND huyện Đất Đỏ xử lý, khắc phục hậu quả” – UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thông tin.

Tháng 10/2017, UBND huyện Đất Đỏ ban hành văn bản 6115/UBND-PTNMT về việc tạm ngưng giải quyết cấp mới và chuyển quyền sử dụng đất ở tại Khu dân cư 21 ha thị trấn Phước Hải và khu dân cư Kim Liên xã Phước Hội.

Sau đó, lần lượt vào tháng 8 và tháng 11 năm 2018, huyện này có 2 báo cáo về kết quả xử lý, khắc phục hậu quả đối với 235 trường hợp giao đất tại địa bàn huyện không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất. Trên cơ sở 2 văn bản nêu trên, cuối tháng 1/2019, Sở TN&MT tỉnh thống nhất nội dung tham mưu báo cáo UBND tỉnh xem xét một số nội dung liên quan.

Đơn cử, đối với 55 trường hợp UBND huyện Đất Đỏ đã có quyết định thu hồi đất, đã thu hồi quyết định giao đất và đã thu hồi GCNQSD đất và QSH nhà ở trong cùng một quyết định, trường hợp này không phải là vi phạm theo quy định tại Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 mà theo quy định tại Điều 118 Luật Đất đai 2013, thì cơ quan thuế hoàn trả số tiền người sử dụng đất đã nộp theo quy định.

Hay, trường hợp người được giao đất đã xây dựng nhà ở đối với diện tích đất đã được giao, thì báo cáo UBND tỉnh xin ý kiến sửa đổi bổ sung Quyết định giao đất, người được giao đất phải nộp khoản tiền chênh lệch giữa tiền sử dụng đất qua đấu giá và số tiền người được giao đất đã nộp. Giá đất đấu giá được lấy theo giá đấu giá của lô đất tương đương trong cùng khu vực…

Tới tháng 6/2019, UBND tỉnh ban hành Quyết định 1504/QĐ-UBND về việc thanh tra lại việc giao đất đối với 235 trường hợp được giao đất ở trên địa bàn huyện Đất Đỏ và việc tổ chức thực hiện Kết luận thanh tra 4637 ngày 25/9/2017 của Sở TN&MT. Khoảng 1 năm sau đó, nhiều nội dung liên quan đã được công bố.

71 lô đất giao sai thoát “án” thu hồi

Trong 235 trường hợp nêu trên có: 23 trường hợp giao đúng, 16 trường hợp còn vướng mắc về cách hiểu quy định của pháp luật và 196 trường hợp giao đất có thu tiền không thông qua đấu giá là sai theo quy định tại Điều 118 Luật Đất đai 2013. Tính tới 10/4/2020, theo số liệu của huyện Đất Đỏ, trong 196 trường hợp giao sai có 48 lô đã tự nguyện trả lại, 77 lô chưa xây dựng hoặc chưa chuyển nhượng, 71 lô đã xây dựng hoặc chuyển nhượng.

UBND tỉnh xác định, trong 196 trường hợp giao sai, có trách nhiệm của các lãnh đạo UBND huyện Đất Đỏ trong việc ký các văn bản như: Công văn giao Phòng TN&MT huyện lập thủ tục giao đất, Quyết định giao đất và GCNQSD đất. Gồm các cá nhân: Ông Nguyễn Thanh Dũng (chức vụ khi ký là Chủ tịch UBND huyện nhiệm kỳ 2011-2016); Ông Tạ Văn Bửu (Phó Chủ tịch UBND huyện 2011-2016 và Chủ tịch UBND huyện 2016-2021); ông Nguyễn Văn Hải (Phó Chủ tịch UBND huyện 2011-2016 và 2016-2021).

Tuy nhiên, văn bản của tỉnh nêu rõ, việc các cá nhân như ông Tạ Văn Bửu, Nguyễn Văn Hải thời điểm khi ký các văn bản liên quan là thực hiện nhiệm vụ “được Chủ tịch UBND huyện ủy quyền ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…” theo thông báo phân công công việc của Chủ tịch và các PHó Chủ tịch UBND huyện Đất Đỏ.

Đáng chú ý, là biện pháp xử lý sai phạm đối với 196 lô giao sai (trong đó 48 lô đã tự nguyện trả lại đất) được UBND tỉnh xác định như sau.

Đối với 77 lô đất chưa xây dựng hoặc chưa chuyển nhượng, trong đó có 1 lô chưa cấp GCNQSD đất (UBND huyện Đất Đỏ đã ban hành các quyết định thu hồi): Giao UBND huyện này khẩn trương thực hiện thu hồi (thực hiện trong tháng 5/2020).

Đối với 71 lô đã xây dựng hoặc chuyển nhượng. Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013, thì đối với những trường hợp đã chuyển nhượng thì “không được phép thu hồi GCN đã cấp”. Còn đối với những trường hợp chưa chuyển nhượng mà đã xây dựng trên đất thì việc xử lý công trình xây dựng trên đất khi thu hồi là “không khả thi”.

Do đó, UBND tỉnh xác định: đối với 71 lô đã xây dựng hoặc chuyển nhượng thì giao UBND huyện Đất Đỏ tiến hành đấu giá lô đất tương đương tại khu vực đó. Sau đó, yêu cầu người được giao đất phải nộp khoản tiền chênh lệch giữa tiền sử dụng đất qua đấu giá và số tiền người giao đất đã nộp (thực hiện trước tháng 5/2020)

Căn cứ văn bản 1954-CV/HU ngày 9/6/2015 của huyện ủy Đất Đỏ, UBND huyện này đã giao 60 lô đất cho 43 người (17 người được giao mỗi người 2 lô), trong đó có 22 người đương chức tại thời điểm giao đất, 21 người tại thời điểm giao đất đã nghỉ việc (nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ huyện).

Được biết, Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.

(điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai 2013)

Có thể bạn quan tâm