Doanh thu truyền hình trả tiền Việt Nam 6 tháng đầu năm đạt 4.500 tỷ đồng

Theo Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ TT&TT), thị trường truyền hình trả tiền Việt Nam đạt doanh thu khoảng 4.500 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2022 với 16,9 triệu thuê bao.

Đơn vị quản lý nhà nước này cũng cho biết, nửa đầu năm 2022, đã có thêm 1 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền và hiện có 38 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này ở trong nước.

Từ đầu năm tới nay, doanh thu cung cấp dịch vụ truyền hình ước đạt 4.500 tỷ đồng. Dự kiến doanh thu cả năm 2022 đạt khoảng 9.300 tỷ đồng, tăng trưởng nhẹ so với con số 9.200 tỷ của năm 2021.

truyền hình trả tiền Việt Nam
Các doanh nghiệp truyền hình trả tiền nhiều lần nêu ý kiến về tình trạng “bảo hộ ngược” khiến thị phần rơi vào tay doanh nghiệp ngoại

Tính đến tháng 6, Việt Nam hiện có 16,9 triệu thuê bao truyền hình trả tiền, nếu đạt được con số 17 triệu thuê bao trong năm nay, lượng thuê bao tăng trưởng không đáng kể.

Còn doanh thu cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền trên mạng Internet đạt khoảng 350 tỷ đồng trong nửa đầu năm và có thể đạt mức 700 tỷ đồng trong cả năm 2022, tăng nhẹ so với con số 634 tỷ đồng hồi năm ngoái.

Cũng theo cơ quan nhà nước này, doanh thu dịch vụ truyền hình trả tiền của các doanh nghiệp trong nước tăng không đáng kể khi tiếp tục đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ những nền tảng xuyên biên giới như Netflix, YouTube, Iflix, Apple, WeTV, IQIYI...

Một điều đáng chú ý, nhờ tiềm lực tài chính mạnh, các nền tảng ngoại sẵn sàng trả kinh phí lớn để mua bản quyền những nội dung bản địa hay và cung cấp độc quyền với mức phí hợp lý. Trong khi, họ gần như chưa phải chịu quy định, kiểm duyệt nào như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội địa, điều này khiến truyền hình trả tiền trong nước “thua” trên sân nhà.

Thực tế, trong mấy năm qua, các doanh nghiệp truyền hình trả tiền nhiều lần nêu ý kiến về tình trạng “bảo hộ ngược” khiến thị phần rơi vào tay doanh nghiệp ngoại.

Theo nhận định của Bộ TT&TT, việc cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và nền tảng OTT xuyên biên giới là “không cùng mặt bằng”, khi doanh nghiệp ngoại chưa bị quản lý (cấp phép, đóng phí, thuế, biên tập nội dung…). Nhưng giới chuyên môn cũng nhận định thẳng thắn rằng doanh nghiệp Việt còn nhiều điểm “thiếu” và “yếu”.

Không những thế, nhiều quy định mới đã và sẽ được bổ sung để quản lý các nền tảng xuyên biên giới đang hoạt động tại Việt Nam. Hiện, các nền tảng này đã phải kê khai và nộp thuế khi cung cấp dịch vụ với cơ quan thuế.

Cụ thể, quy định mới yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT VoD qua mạng Internet xuyên biên giới tại Việt Nam phải thực hiện các thủ tục về cấp phép, biên tập nội dung cũng như nghĩa vụ về thuế, phí,… như đối với doanh nghiệp Việt Nam.

Như vậy, khi có cơ chế quản lý mới, các doanh nghiêp trong nước và nước ngoài sẽ kinh doanh trên cùng mặt bằng pháp lý, tránh việc bảo hộ ngược.

Có thể bạn quan tâm