Năm 2022: Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài

Năm 2021 mặc dù đại dịch Covid tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng vẫn có những điểm sáng như xuất khẩu tăng, vốn đầu tư nước ngoài tăng cao. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn là điểm lựa chọn của các nhà đầu tư ngoại.
Mặc dù gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng trong xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. (Ảnh: Int)
Mặc dù gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn có nhiều điểm sáng trong xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. (Ảnh: Int)

Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, để tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn trong phục hồi và phát triển kinh tế năm 2022 và đạt mục tiêu tăng trưởng 6-6,5%, Việt Nam cần thực hiện 7 giải pháp đồng bộ.

Những điểm sáng kinh tế trong năm 2021

Năm 2021, kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh thuận lợi và khó khăn đan xen, nhưng thực tế cho thấy thách thức vẫn còn rất nhiều.

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong 12 tháng năm 2021, cả nước có 116.800 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới; có 43.100 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động năm 2021 lên gần 160.000 doanh nghiệp.

Trong 12 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 4,82% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3% của cùng kỳ năm 2020. Một số ngành công nghiệp trọng điểm và sản phẩm công nghiệp chủ lực đều có mức tăng trưởng cao.

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là điểm sáng nổi bật của nền kinh tế. Mặc dù quý 3/2021, nền kinh tế "chao đảo" vì đại dịch nhưng trong 12 tháng năm 2021 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 31,15 tỷ USD ở 18 lĩnh vực. Công nghiệp chế biến, chế tạo có vốn FDI đăng ký lên đến 18,1 tỷ USD, chiếm 58,2% tổng vốn đăng ký. Bức tranh kinh tế 12 tháng phản ánh ngành chế biến chế tạo phục vụ xuất khẩu là động lực chính và cũng là lĩnh vực dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Trong bối cảnh đại dịch làm đứt gãy chuỗi cung ứng, nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ, phí vận chuyển và logistic tăng cao, nhưng kim ngạch xuất khẩu 12 tháng đạt tới 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước; trong đó, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước; trong đó, nhập khẩu tư liệu sản xuất đạt hơn 280 tỷ USD, tăng 27,9% và chiếm 93,6% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá. Đây là nhóm hàng dùng trong sản xuất, tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Kết quả trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào mắt xích Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Cộng đồng thế giới đánh giá Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới.

Với những điểm sáng về sản xuất, đầu tư và thương mại quốc tế trong 12 tháng năm 2021, phản ánh nền kinh tế đang từng bước phục hồi. Đây là cơ sở quan trọng, tạo đà tăng trưởng cao trong thời gian tới.

Điểm nghẽn phát triển kinh tế năm 2022

Dịch COVID-19 đã gây khó khăn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn cả vấn đề xã hội. Trong 12 tháng năm 2021, có 119.800 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; trong đó, có gần 55.000 doanh nghiệp rút lui khỏi nền kinh tế.

Tuy nhiên các đợt giãn cách xã hội kéo dài đã gây đứt gãy chuỗi lưu thông hàng hóa và lao động. Thiếu việc làm dẫn đến cắt giảm chi tiêu và tổng cầu của nền kinh tế giảm sâu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 11 tháng giảm 10,4%, ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt con số ấn tượng với 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm 2020, nhưng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt gần 88,71 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu và chỉ tăng 13,4% so với mức tăng 21,1% của khu vực FDI. Kinh tế phụ trợ và liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực FDI còn yếu và lỏng lẻo.

Nông nghiệp luôn là bệ đỡ trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế cũng gặp không ít thách thức trong năm 2021.

Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Điều này sẽ khiến cho giá cả hàng hóa tăng cao, tạo áp lực lên lạm phát nền kinh tế.

Áp lực lạm phát của năm 2022 đối với kinh tế Việt Nam cũng đang hiện hữu. Giá nguyên vật liệu, hàng hoá và dịch vụ thế giới tăng cao; giá dầu thô còn tiếp tục tăng trong những năm tới do nhu cầu tăng mạnh, trong khi nguồn cung hạn chế và thị trường dầu thô trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua. Thiếu hụt đầu tư thượng nguồn trong khai thác dầu khi nhu cầu ngày một tăng là chỉ báo về giá dầu cao kéo dài trong ít nhất trong năm tới.

Kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, với tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế là 37%. Chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế, nhất là khi giá xăng dầu thế giới tăng sẽ làm tăng giá nguyên vật liệu nhập khẩu và cả nguyên nhiên vật liệu trong nước.

Giải pháp phục hồi kinh tế 2022

Để Việt Nam phục hồi kinh tế đạt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 là 6-6,5%. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.

Theo đó, thứ nhất, Việt Nam cần triển khai, thực hiện tốt, an toàn chiến dịch bao phủ diện rộng cho toàn dân tiêm vaccine, ưu tiên tiêm cho lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể để hai khu vực sản xuất này sớm phục hồi nhanh sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, chú trọng đến chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn. Đồng thời, sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng.

Thứ ba, nâng cao năng lực giải ngân và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư: Thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng động lực, cực tăng trưởng, các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án kết nối liên vùng. Đặc biệt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công để tạo sự lan tỏa đến đầu tư tư nhân và khu vực FDI; khai thác thế mạnh các Hiệp định thương mại đã ký kết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu; tăng cường cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI.

Thứ tư, thực hiện nhanh và hiệu quả việc cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ cấu lại nội bộ từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.

Thứ năm, chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý khi phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá; thực hiện các giải pháp kết nối, bảo đảm nguồn cung lao động phù hợp cho người dân...

Thứ sáu, tăng cường triển khai và thực hiện chuyển đổi số trong cải cách thể chế và thủ tục hành chính. Rào cản về thủ tục không chỉ gây khó khăn, mà còn tạo ra sự không công bằng cho cộng đồng doanh nghiệp trong việc tiếp cận chính sách và làm méo mó môi trường kinh doanh.

Thứ bảy, tạo dựng chính sách liên thông, kết nối các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ đi kèm với sự đồng thuận tại các chính quyền địa phương, giải quyết tình trạng tình trạng “cát cứ” không thống nhất gây cản trở.

Về xuất nhập khẩu, cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới.

Đẩy mạnh lưu thông phân phối hàng hóa giữa các địa phương nhằm bảo đảm cung ứng nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân. Triển khai các chương trình kích cầu tiêu dùng trong nước như: tổ chức tháng khuyến mại trên toàn quốc, các chương trình bán hàng lưu động, chương trình bình ổn thị trường… Tăng cường các hoạt động kết nối cung cầu và xúc tiến thương mại thị trường trong nước. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa.

Có thể bạn quan tâm