Sau sự cố cá chết hàng loạt tại Miền Trung: Thủy sản lấy lại đà

 Nguyên nhân gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh miền trung (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) đã được xác định là do Công ty Formosa Hà Tĩnh (FHS) gây ra. Nhiệm vụ cấp b
Sau sự cố cá chết hàng loạt tại Miền Trung: Thủy sản lấy lại đà

 Nguyên nhân gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh miền trung (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế) đã được xác định là do Công ty Formosa Hà Tĩnh (FHS) gây ra. Nhiệm vụ cấp bách và dài hạn lúc này là khắc phục hậu quả về môi trường, ổn định cuộc sống cho người dân. Khơi thông lại đầu ra cho thủy sản là điều cần phải tính đến. Ngư dân cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước và đồng hành của doanh nghiệp.

Lấy lại niềm tin Sau sự cố cá chết ở miền Trung, có một thực tế người dân không dám dùng sản phẩm thủy sản. Ngay cả ngư dân cũng không dám ăn con cá chính mình đánh bắt. Vậy nên, điều cơ bản lúc này, muốn khôi phục lại ngành đánh bắt thủy sản ở khu vực này thì những người có trách nhiệm cần phải trả lời câu hỏi: Sản phẩm hải sản ở khu vực này có an toàn hay không? Làm sao phân định được đâu là sản phẩm an toàn, đâu là sản phẩm không an toàn? Theo ông Phạm Ngọc Tuấn – Phó vụ trưởng Vụ Khai thác thủy sản (Tổng cục Thủy sản), với môi trường được thử và chứng minh là trong chỉ số cho phép hiện nay, có thể nói các loài đang có tại vùng biển này là an toàn. Bởi với tập tính sinh học của các loài sinh vật, khi môi trường sống bị nguy hiểm ngoài những cá thể bị sốc, chết cấp, những cá thể còn lại với bản năng sinh tồn của mình sẽ di chuyển, chạy trốn khỏi nơi nguy hiểm đến những vùng an toàn hơn. Còn xét trên cơ sở luận cứ khoa học, sự cố môi trường xảy ra, các chất như phenol, xyanua, sắt hai, sắt ba… kết hợp lại tạo thành một khối phức chất dạng keo huyền phù khó bị hòa tan trong môi trường nước biển dịch chuyển theo dòng chảy từ bắc xuống nam, gây ra hiện tượng cá chết hàng loạt tại các khu rạn đá, rạn san hô dọc theo bờ biển vệt của khối keo huyền phù di chuyển, các loại cá đáy, cá sống trong rạn đã bị chết hoặc chạy trốn hết. Số độc tố còn lại không kết hợp thành phức chất sẽ bị hòa tan nhanh vào môi trường biển nên khả năng nhiễm độc cho các loài thủy sinh khác là rất thấp. Mới đây, Bộ NN và PTNT cũng đã giao Viện Nghiên cứu Hải sản chủ trì cùng với các cơ quan nghiên cứu của Bộ thiết lập 28 trạm quan trắc môi trường theo bảy mặt cắt song song với vĩ tuyến. Kết quả phân tích các mẫu hải sản thu được các chỉ số về vi sinh, kim loại nặng đều nằm trong ngưỡng cho phép về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bộ Y tế cũng tiến hành lấy mẫu, kiểm tra độc lập về vệ sinh, an toàn thực phẩm lưu thông trên thị trường cũng chưa phát hiện được sản phẩm hải sản mất an toàn. Hiện nay, ngư dân các tỉnh bị ảnh hưởng đã đi khai thác trở lại, sản lượng khai thác có thấp hơn, nhưng thiệt hại lớn nhất của ngư dân vẫn là giá bán cá bị giảm rất lớn, có khi lên đến 40 – 50% so với trước đây. Nguyên nhân chính vẫn là do tâm lý e ngại của người tiêu dùng về mức độ an toàn của sản phẩm hải sản khai thác được nên sức cầu rất thấp. Do đó, lúc này, lấy lại niềm tin cho người tiêu dùng về hải sản an toàn là nhiệm vụ tiên quyết mà các cơ quan chức năng phải đặt ra và giải quyết. Trước mắt, cần tổ chức sản xuất hỗ trợ ngư dân đánh bắt trở lại, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm thủy sản đánh bắt về. Lâu dài, cần tổ chức lại sản xuất khai thác hải sản hoạt động theo chuỗi từ khai thác đến bàn ăn. Các chuỗi cần chủ động xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho chuỗi hải sản của mình. Nhà nước hỗ trợ việc tổ chức chuỗi có sự tham gia của các nhà phân phối lớn như hệ thống nhà hàng, siêu thị, metro,… Chiến lược phát triển thủy sản Từ câu chuyện khai thác và đầu ra cho sản phẩm thủy sản của bốn tỉnh miền Trung, cũng cần thiết phải nhìn nhận lại chiến lược phát triển của ngành thủy sản. Với loại hình sản xuất mang tính đặc thù như khai thác sản phẩm hải sản, lời giải cho việc nâng cao giá trị đầu ra lại nằm ở chính việc nhân rộng hình thức quản lý, hoạt động sản xuất theo chuỗi giá trị từ khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ. Tuy nhiên, cần chú trọng xác lập việc gắn kết các tác nhân dọc chuỗi đi cùng với sự cam kết và ràng buộc rõ ràng. Chỉ khi hài hòa lợi ích của các bên tham gia chuỗi thì mới tạo nên chất kết dính, cũng như sự bền vững cho hoạt động của chuỗi. Mỗi tác nhân cần có các liên kết ngang bảo đảm để các yếu tố đầu vào được cung ứng tốt nhất, tính cạnh tranh cao, giảm giá thành sản xuất trong mắt xích của mình. Dù là theo hình thức chuỗi nào đi nữa thì sản phẩm thủy sản vẫn phải tuân theo những nguyên tắc thị trường nếu muốn đẩy mạnh số lượng và giá trị tiêu thụ, trong đó yếu tố tạo dựng niềm tin, đáp ứng các tiêu chí về chất lượng sản phẩm là tối quan trọng. Ngoaì sự nỗ lực của ngư dân, của các doanh nghiệp thì ngành thủy sản cần đến vai trò kiến thiết phát triển của Nhà nước để có được các cơ chế chính sách đủ mạnh để tạo ra các cú huých kéo theo dòng chảy đầu tư từ khối doanh nghiệp và ngư dân vào mảng còn thiếu hụt hiện nay như đóng mới tàu cá theo công nghệ lưới vây đuôi, hay tàu chụp mực có công nghệ chế biến ngay trên tàu… Nhà nước cũng cần khuyến khích mở rộng các hình thức liên kết ngang giữa các doanh nghiệp như thành lập các Hội, Hiệp hội nghề nghiệp, để từ những cam kết xây dựng hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp hướng đến việc hình thành thương hiệu Quốc gia. Điểm khó khăn hiện này chính là sản phẩm khai thác gần bờ bởi chịu áp lực từ mức độ khai thác lớn, trong khi nguồn lợi cạn kiệt. Do đó, cần có chính sách cụ thể để giao mặt nước biển cho ngư dân quản lý và chủ động thời gian khai thác hợp lý nhất. Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ ngư dân xây dựng các bãi cá, bãi rạn, các hệ sinh thái san hô, cỏ biển nhân tạo nhằm giúp ngư dân không chỉ thu lợi từ giá trị vật chất đơn thuần của nguồn lợi mà còn có thể tạo ra giá trị gia tăng từ các hoạt động câu cá, đánh lưới, sinh hoạt trên tàu cá để phục vụ phát triển du lịch và giáo dục môi trường cho học sinh. Ở các làng cá ven biển, Nhà nước cần hỗ trợ đào tạo nghề cho ngư dân đi đôi với cấp vốn tín dụng để họ có thể mở rộng đầu tư máy móc thiết bị, mở mang hoạt động sản xuất theo hướng xây dựng nên những thương hiệu gia đình. Đưa những làng chài trở thành các làng nghề có thương hiệu mạnh, và hỗ trợ cho các sản phẩm làng nghề ấy tiếp cận vào chuỗi cung ứng mạnh như các siêu thị, chính là con đường tạo nên giá trị bền vững cho hoạt động khai thác thủy sản gần bờ. Đó là xu thế không thể đảo ngược.  

Lâu dài, cần tổ chức lại sản xuất khai thác hải sản hoạt động theo chuỗi từ khai thác đến bàn ăn. Các chuỗi cần chủ động xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho chuỗi hải sản của mình. Nhà nước hỗ trợ việc tổ chức chuỗi có sự tham gia của các nhà phân phối lớn như hệ thống nhà hàng, siêu thị, metro,…

Thảo Nhi

Có thể bạn quan tâm