Ba nhà chung sức mở đường đổi mới và chuyển đổi số, tạo vận hội mới cho doanh nghiệp Việt

Từ những bài học của thế giới và cơ sở chính trị, pháp lý trong nước, Việt Nam đang bước vào giai đoạn then chốt để thiết kế và vận hành mô hình hợp tác ba nhà, làm hạt nhân cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia…

Ngày 30/10, Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam - VACOD tổ chức Hội nghị “Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới”.

Trong tham luận với chủ đề "Hợp tác ba nhà: Nhà khoa học, công nghệ - Doanh nghiệp - Nhà nước hướng tới phát triển sản phẩm ứng dụng và hình thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp tại Việt Nam", PGS.TS Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh rằng, thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển mới, được định hình sâu sắc bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

MÔ HÌNH HỢP TÁC BA NHÀ GIÚP VIỆT NAM BỨT PHÁ TRONG KỶ NGUYÊN 4.0

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi căn bản các mô hình sản xuất, kinh doanh và quản trị trên quy mô toàn cầu, với sự trỗi dậy của các công nghệ lõi như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain), công nghệ sinh học và vật liệu mới.

Trong bối cảnh đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã vượt qua vai trò là một lĩnh vực riêng lẻ để trở thành động lực chính, quyết định năng lực cạnh tranh, tốc độ phát triển và vị thế của mỗi quốc gia.

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định một cách nhất quán và mạnh mẽ rằng phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là một lựa chọn, mà là con đường tất yếu để Việt Nam vươn lên, trở thành một quốc gia phát triển, giàu mạnh và thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.

Việt Nam được ghi nhận là một trong số ít quốc gia trên thế giới (dưới 5%) tiên phong trong việc kết nối chặt chẽ bộ ba yếu tố khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Cách tiếp cận này mới là mục tiêu, phải cần có hành động. Do đó cần bộ ba mới là nhà khoa học công nghệ, nhà doanh nghiệp, nhà nước thì mới thúc đẩy phát triển và tạo ra các giá trị thực tiễn cho kinh tế - xã hội và góp phần tăng GDP.

PGS.TS Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ

Theo mô hình Triple Helix, ba chủ thể này tương tác chặt chẽ, tạo thành một chuỗi năng động, là nền tảng để thúc đẩy một nền kinh tế dựa trên tri thức. Viện/trường và doanh nghiệp là mối quan hệ cốt lõi, nơi diễn ra các hoạt động chuyển giao tri thức, công nghệ, nghiên cứu và phát triển (R&D) theo hợp đồng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo nhu cầu của doanh nghiệp và thực tế của thị trường.

Trong mối quan hệ với viện/trường, nhà nước đóng vai trò tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản mang tính nền tảng, định hướng các chiến lược R&D quốc gia và xây dựng các chính sách phát triển giáo dục đại học. Nhà nước đầu tư cho viện trường và doanh nghiệp thực hiện sản xuất thử nghiệm, cũng như đầu tư mạo hiểm cho hình thành các start-up hay các công ty spin-off.

Trong mối quan hệ với doanh nghiệp, nhà nước kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ và đồng thời có thể đóng vai trò là khách hàng lớn, đặt hàng các sản phẩm công nghệ mang tính chiến lược.

Thế nhưng, mối liên kết ba nhà đang đối mặt với một mâu thuẫn lớn và những điểm nghẽn mang tính hệ thống cần được tháo gỡ khẩn cấp.

Theo đó, mối liên kết giữa khối nghiên cứu (các viện, trường đại học) và khối ứng dụng (doanh nghiệp) vẫn còn rất yếu. Hoạt động đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành cầu nối hiệu quả để đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống, tạo ra các sản phẩm thương mại hóa có giá trị gia tăng cao.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, thể chế pháp lý và các cơ chế, chính sách hiện hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển năng động của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, còn tồn tại nhiều rào cản. Song song đó, hạ tầng nền tảng, đặc biệt là hạ tầng số như mạng 5G, trung tâm dữ liệu lớn, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, còn nhiều hạn chế so với yêu cầu.

Một trong những nghịch lý lớn nhất là nguồn nhân lực R&D của Việt Nam đang tập trung chủ yếu ở khu vực nhà nước (chiếm 84,1%). Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nơi có nhu cầu ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo cao nhất để tạo ra sản phẩm cạnh tranh, lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn (lần lượt là 13,8% và 2,1%).

Do đó, đề xuất một mô hình hợp tác ba nhà mới không chỉ là một đề tài mang tính học thuật, mà đã trở thành một yêu cầu cấp bách, mang tính sống còn để giải quyết điểm nghẽn mang tính hệ thống, khai thông các nguồn lực và hiện thực hóa khát vọng phát triển của quốc gia.

BẮT NHỊP THẾ GIỚI

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự ra đời của một loạt văn bản chính sách mang tính đột phá, tạo thành một nền tảng pháp lý và chính trị vững chắc, một thời cơ chín muồi để triển khai mô hình hợp tác ba nhà một cách toàn diện và thực chất.

Trong đó, nghị quyết 57-NQ/TW xác định các định hướng chiến lược và giải pháp mang tính cách mạng cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số và là kim chỉ nam cho đột phá phát triển và vận hành mô hình.

Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân là mảnh ghép chiến lược, xác định rõ chủ thể chính sẽ thực hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Nghị quyết yêu cầu phải kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào R&D, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập sâu, chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp vào tri thức toàn cầu, nâng cao năng lực nội sinh và khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.

Nghị định 180/2025/NĐ-CP cung cấp công cụ pháp lý cụ thể để nhà nước và khu vực tư nhân hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Nghị định mở rộng đáng kể các hình thức hợp tác công - tư (PPP), không chỉ giới hạn trong các hình thức truyền thống mà còn bao gồm các hình thức linh hoạt như hợp tác 3 nhà và đặt hàng của nhà nước.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm thành công của các quốc gia đi đầu về đổi mới sáng tạo trên thế giới cung cấp những bài học quý giá, giúp Việt Nam có thể "may đo" và xây dựng một mô hình phù hợp với bối cảnh trong nước.

Hàn Quốc đã thực hiện một cuộc chuyển đổi chiến lược ngoạn mục từ mô hình liên kết ba nhà thúc đẩy đổi mới sáng tạo do nhà nước lãnh đạo sang mô hình do tư nhân dẫn dắt.

Trong mô hình này, Chính phủ đóng vai trò kiến tạo môi trường, ban hành các chính sách khuyến khích mạnh mẽ để các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các chaebol, đầu tư lớn vào R&D và hợp tác chặt chẽ với các viện nghiên cứu, trường đại học.

Hàn Quốc đã ban hành các chính sách khuyến khích mạnh mẽ để các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các chaebol

Song song đó, Chính phủ tập trung đầu tư vào ba trụ cột nền tảng kiến thức (hệ thống giáo dục và nghiên cứu cơ bản), tài chính (thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, chính sách ưu đãi thuế R&D), và con người (các chương trình đào tạo và thu hút nhân tài).

Nhật Bản đã rất thành công với chính sách cụm công nghiệp do Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) khởi xướng. Chính sách này kết hợp linh hoạt cả cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) phát huy thế mạnh của từng địa phương và từ trên xuống (top-down) định hướng theo các ngành công nghệ chiến lược quốc gia.

Kết quả là đã hình thành nên các mạng lưới hợp tác công – thương - học thuật dày đặc và hiệu quả, với sự tham gia của hàng chục nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng hàng trăm trường đại học.

Chiến lược đổi mới sáng tạo tích hợp của Nhật Bản cũng dựa trên ba trụ cột, trong đó trụ cột phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mà trọng tâm là liên kết ba nhà đặc biệt nhấn mạnh việc thúc đẩy hợp tác công nghiệp và đại học thông qua các gói thúc đẩy toàn diện cho các trường đại học nghiên cứu cốt lõi và một hệ thống tín dụng thuế R&D hấp dẫn.

Đạo luật Bayh-Dole năm 1980 của Mỹ được xem là một cuộc cách mạng, tạo ra một cú hích khổng lồ cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Nội dung cốt lõi của đạo luật này là cho phép các trường đại học và tổ chức phi lợi nhuận được quyền sở hữu bằng sáng chế đối với các phát minh được tạo ra từ các nghiên cứu do chính phủ liên bang tài trợ.

Điều này đã giải quyết được bài toán về động lực để các trường đại học có lợi ích kinh tế trực tiếp từ việc thương mại hóa tài sản trí tuệ của mình. Kết quả, các trường đại học Mỹ đã trở thành những trung tâm đổi mới sáng tạo thực sự, thúc đẩy mạnh mẽ việc thành lập các công ty spin-off và thương mại hóa công nghệ, đóng góp hàng chục tỷ USD cho nền kinh tế và tạo ra hàng trăm nghìn việc làm.

Singapore là một ví dụ điển hình về vai trò "nhạc trưởng" của nhà nước trong việc điều phối và dẫn dắt hệ sinh thái. Mặc dù không có Bộ Khoa học Công nghệ riêng, hệ thống của Singapore được điều phối cực kỳ chặt chẽ.

Đứng đầu là Hội đồng Nghiên cứu, Đổi mới và Doanh nghiệp (RIEC) do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, có vai trò xây dựng chiến lược dài hạn và phân bổ nguồn lực. Cơ quan thực thi chính là A*STAR (Agency for Science, Technology and Research), một cơ quan nghiên cứu khoa học hàng đầu, đóng vai trò là cầu nối hiệu quả giữa các nghiên cứu khoa học đỉnh cao và nhu cầu thực tế của ngành công nghiệp.

GIẢI PHÁP HỢP TÁC BA NHÀ VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH ĐỒNG BỘ

Để hiện thực hóa định hướng phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia dựa trên mô hình hợp tác giữa nhà khoa học công nghệ, nhà doanh nghiệp và nhà nước, cần xác định rõ các mục tiêu và nội dung triển khai.

Về mục tiêu tổng quát, xây dựng được các luận cứ khoa học và thực tiễn vững chắc để đề xuất các mô hình hợp tác ba nhà khả thi, hiệu quả, cùng một bộ cơ chế chính sách vận hành đồng bộ để triển khai tại Việt Nam.

Mục tiêu cuối cùng là nhằm giải phóng các nguồn lực, thúc đẩy phát triển sản phẩm ứng dụng, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, và hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược đã đề ra trong Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW.

Với các mục tiêu cụ thể, hệ thống hóa, phân tích sâu sắc và làm rõ cơ sở lý luận về mô hình Triple Helix, các biến thể của nó, và các bài học thực tiễn thành công từ các quốc gia đi đầu về đổi mới sáng tạo.

Đánh giá một cách khách quan, toàn diện và dựa trên dữ liệu về thực trạng năng lực, nhu cầu và các rào cản, điểm nghẽn trong mối liên kết giữa các viện/trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước tại Việt Nam hiện nay.

Thiết kế và đề xuất ít nhất 3 mô hình hợp tác ba nhà có tính đặc thù, khả thi cao, phù hợp với các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (như bán dẫn, AI, công nghệ sinh học) và bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Trong đó, mô hình 1 là hợp tác theo nhiệm vụ chiến lược quốc gia định hướng phát triển bền vững và lâu dài, giải quyết các bài toán lớn, chiến lược (bán dẫn, 5G/6G, nông nghiệp công nghệ cao…).

Mô hình 2 là hạ tầng R&D mở/dùng chung. Doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, viện/trường cung cấp chuyên gia. Nhà nước hỗ trợ đất, thuế và chi phí vận hành giai đoạn đầu. Mô hình này tạo nền tảng R&D mở, cho phép startup và cộng đồng tham gia.

Mô hình 3 là quỹ của các quỹ, nhà nước cấp vốn mồi cho quỹ con tư nhân chuyên nghiệp. Mô hình này ưu tiên lĩnh vực chiến lược, chia sẻ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc thị trường.

Đồng thời, xây dựng một khung cơ chế, chính sách vận hành đồng bộ và mang tính đột phá cho các mô hình được đề xuất, tập trung giải quyết ba điểm nghẽn cốt lõi đã được xác định gồm tài chính và ưu đãi, sở hữu trí tuệ và phân chia lợi ích, quản trị và điều phối.

Mô hình hợp tác ba nhà là nền tảng để hình thành sản phẩm công nghệ và trung tâm đổi mới sáng tạo. Khi được vận hành hiệu quả, nó sẽ biến tri thức khoa học thành sản phẩm thương mại, tạo động lực cho phát triển kinh tế tri thức và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững.

Có thể bạn quan tâm