Doanh nghiệp dân tộc không thể mãi dựa vào thương mại hay bất động sản, mà phải làm chủ sản xuất, chế tạo và công nghệ. Nếu không thay đổi cấu trúc nền kinh tế, Việt Nam sẽ luôn phụ thuộc, thiếu tự chủ trong chuỗi giá trị toàn cầu.
XOÁ BỎ TƯ TƯỞNG "CON NUÔI, CON ĐẺ"
Tại hội thảo “Xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ doanh nghiệp dân tộc vì khát vọng Việt Nam thịnh vượng”, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ đánh giá, để kiến tạo quốc gia hùng cường cần phải có những doanh nghiệp hùng cường. Với diễn biến thực tế trên thương trường hiện nay thì yếu tố then chốt quyết định sự tự lực tự cường của dân tộc chính là doanh nghiệp.
Hiện nay, thế giới biết đến doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là trong lĩnh vực xuất khẩu. Thực tế, xuất khẩu hàng hoá năm 2024 của nước ta đạt 400 tỷ USD, nhưng khu vực FDI chiếm tới 75%, doanh nghiệp Việt chủ yếu "xuất khẩu hộ". Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề: Giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu, thiếu công nghệ lõi.
Do đó, ông Nghĩa đã đưa ra 3 bài học để doanh nghiệp Việt vươn mình trong kỷ nguyên mới. Thứ nhất, muốn tự lực, tự cường, doanh nghiệp Việt phải làm chủ công nghệ, phát triển công nghiệp chế tạo bằng nội lực doanh nghiệp dân tộc.
Thứ hai, không thể mạnh nếu chỉ dựa vào thương mại hay bất động sản; phải có trụ cột sản xuất, chế tạo và công nghệ.
Thứ ba, riêng lĩnh vực bất động sản cần phải thay đổi từ kênh đầu tư ngắn hạn sang nền tảng hạ tầng cho công nghiệp hóa và đô thị hóa bền vững. Cụ thể, cần đẩy mạnh phát triển bất động sản công nghiệp, đô thị, công nghệ gắn với chiến lược sản xuất và đổi mới sáng tạo; quan tâm phát triển nhà ở thương mại vừa túi tiền.
Hãy nhìn vào bài học thành công của Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc khi thu hút FDI bằng lợi thế công nghệ. Trong khi đó, Việt Nam và Malaysia “mở toang thị trường”, “lôi kéo tối đa” nhưng vẫn kém hấp dẫn với các nhà đầu tư lớn do thị trường còn non trẻ, thiếu lợi thế cạnh tranh.
"Sức mạnh thực sự của đội ngũ doanh nhân dân tộc, của một quốc gia tự lực tự cường đến từ mục tiêu "xây tổ khổng tước": Quy tụ nhân tài, kiến tạo sức mạnh trí tuệ".
Ở góc nhìn pháp lý, PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng Trường, Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội cho biết, về khái niệm, đang có rất nhiều ý kiến xoay quanh doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhà nước… Nhưng theo ông Tuyến, đường lối của Đảng và Nhà nước đã được thể hiện rất rõ ràng trong Nghị quyết, quan trọng là thể chế đường lối đó như thế nào?
Trên thực tế, vẫn có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp. Nhiều người nói rằng các doanh nghiệp, thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật nhưng doanh nghiệp nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo.
“Đây là vấn đề rất mâu thuẫn. Không chỉ vậy, doanh nghiệp dân tộc hay doanh nghiệp tư nhân ở góc độ nào đó vẫn có sự phân biệt. Ta phải vượt qua được rào cản trong tư duy: Doanh nghiệp tư nhân là “con nuôi”, doanh nghiệp nhà nước là “con đẻ””, ông Tuyến nhấn mạnh.
Về chính sách, để thực hiện được Nghị quyết 68, cần lựa chọn doanh nghiệp tư nhân tiêu biểu, có chính sách từ phía Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân phát triển, tạo lợi thế cạnh tranh sòng phẳng trong quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng cần xây dựng cơ chế hỗ trợ và thúc đẩy. Thực tế hiện nay, lấy ngay dẫn chứng từ lĩnh vực bất động sản, doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất khó khăn trong khâu tiếp cận đất đai. Trong khi đó, cả nước có trên 900.000 doanh nghiệp nhưng xét về quy mô thì chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không thể không có chính sách thúc đẩy.
Vì thế, với những doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có sự điều chỉnh trong cơ chế hỗ trợ, từ tiếp cận đất đai, vay vốn, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng đến đơn giản hoá thủ tục hành chính…
Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ các tập đoàn lớn như Sun Group, Vingroup, T&T… với vai trò “sếu đầu đàn”, dẫn dắt kinh tế phát triển, vươn mình ra thế giới.
ĐỘT PHÁ CHO DOANH NGHIỆP NẰM Ở CHÍNH SÁCH
Đại sứ Phạm Quang Vinh bày tỏ, doanh nghiệp dân tộc chắc chắn đó phải là doanh nghiệp Việt Nam, nhưng không chỉ mang “quốc tịch Việt Nam” mà còn phải thể hiện bản sắc Việt, trí tuệ Việt và khát vọng Việt.
Dù là doanh nghiệp trong nước, song, họ cần hướng đến mục tiêu vươn ra toàn cầu (go global), không dừng lại ở vai trò gia công, phụ trợ mà phải tiến lên các phân khúc cao hơn trong chuỗi giá trị; đồng thời, phải đủ quy mô để giữ vai trò đầu tàu.
Về mặt chính sách, cần xác định rõ doanh nghiệp quy mô lớn có thể dẫn dắt một số lĩnh vực then chốt, trọng yếu, và Nhà nước sẽ đóng vai trò định hướng lựa chọn lĩnh vực. Nhưng chắc chắn, xu hướng chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là tất yếu.
“Những gì đã có, phải tiếp tục củng cố và làm mạnh hơn; những gì còn yếu hoặc chưa hình thành, phải khắc phục, chuyển đổi để bắt kịp xu thế, đặc biệt là trong phát triển xanh”, Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh.
Doanh nghiệp dân tộc không chỉ là những doanh nghiệp đã lớn mạnh, mà còn bao gồm những doanh nghiệp đang nỗ lực vươn lên. Chính sách ưu tiên hiện nay dành cho các doanh nghiệp “đầu tàu”, nhưng cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp khác có cơ hội vươn mình, hình thành một hệ sinh thái doanh nghiệp dân tộc cùng phát triển.
“Tôi cho rằng, đột phá thực sự nằm ở chính sách ưu tiên dành cho doanh nghiệp dân tộc, phải làm sao để khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy được sức mạnh của lực lượng này”, ông Vinh nói.
Còn GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đặt ra câu hỏi: “Doanh nghiệp dân tộc trong hệ thống pháp lý, trong nền kinh tế của chúng ta là ai?”. Nếu không định hình rõ vị trí, tư cách chủ thể của doanh nghiệp dân tộc, chúng ta khó có thể xây dựng được chính sách.
Chẳng hạn, khi nhắc đến doanh nghiệp vừa và nhỏ thì phải có tiêu chí xác định quy mô cho loại doanh nghiệp này. Hay doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực điện mặt trời, điện tái tạo là những lĩnh vực đột phá thì cần có chính sách để hỗ trợ.
Nhưng riêng khái niệm doanh nghiệp dân tộc vẫn chưa được định hình rõ. Hiện tại, khái niệm “doanh nghiệp dân tộc” trong hệ thống pháp lý và nền kinh tế của các quốc gia là không tồn tại. Tại Việt Nam, hiện không có khái niệm chuẩn trong Nghị quyết 41 cũng như trong các bộ luật liên quan đến doanh nghiệp và luật tài chính thương mại.
Nếu muốn phát triển doanh nghiệp dân tộc, trước tiên cần làm rõ tư cách pháp lý của đối tượng này. GS.TS. Lê Hồng Hạnh đã đọc rất nhiều bài viết về doanh nghiệp dân tộc của các doanh nhân, các nhà khoa học… nhưng chưa kiến giải được thế nào là doanh nghiệp dân tộc. Thậm chí có sự mâu thuẫn khi có người nói doanh nghiệp dân tộc phải bao gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, có người lại cho rằng chỉ doanh nghiệp lớn mới được coi là doanh nghiệp dân tộc.
Vị GS. TS cho rằng, mọi tiêu chuẩn đều có thể đúng nhưng chưa đủ. Một doanh nghiệp nhỏ dù có làm tốt đến đâu cũng chưa phải là biểu tượng của dân tộc vì không tạo ra hình ảnh của dân tộc, không có vai trò dẫn dắt nền kinh tế. Hay một doanh nghiệp lớn dù có quy mô lớn, doanh thu lớn nhưng hoạt động không hiệu quả, chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay để duy trì thì vai trò dẫn dắt cũng không rõ ràng. Hay một doanh nghiệp có thương hiệu tốt, rất nổi tiếng nhưng không thể hiện được vai trò xã hội thì có được coi là doanh nghiệp dân tộc được không?
“Theo tôi, nên coi doanh nghiệp dân tộc là một danh hiệu biểu tượng giống như danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Anh hùng dân tộc… giống như chúng ta từng vinh danh các nhà tư sản trước đây. Biểu tượng này đóng vai trò rất quan trọng, mang đậm dấu ấn riêng của Việt Nam”, GS.TS. Lê Hồng Hạnh cho hay.