Trong tương lai, khách hàng sẽ sử dụng dịch vụ ngân hàng kỹ thuật số ngày càng nhiều hơn là giao dịch trực tiếp tại quầy. Ảnh minh họa
Ông Phạm Hồng Hải, CEO Ngân hàng HSBC Việt Nam:
Nhiều giải pháp công nghệ mới được đưa vào dịch vụ
- Chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, chúng ta đã chứng kiến ngành ngân hàng (Việt Nam) thay đổi rất nhanh. Bên cạnh sự cạnh tranh khốc liệt dẫn tới lợi nhuận sụt giảm, thậm chí một số ngân hàng rơi vào vòng kiểm soát đặc biệt, là sự tham gia sôi động của các ngân hàng nước ngoài với quy mô vùng và những bước đầu khai phá ứng dụng công nghệ cao trong dịch vụ.
Ông Phạm Hồng Hải, CEO Ngân hàng HSBC Việt Nam |
Với sự cạnh tranh khốc liệt cộng với những quy định chặt chẽ của các cơ quan quản lý, từ toàn cầu cho tới quốc gia, ngân hàng sẽ không còn là ngành kinh doanh lợi nhuận cao mà mang dáng dấp của một doanh nghiệp công ích với lợi nhuận vừa phải. Do tăng doanh thu gặp nhiều khó khăn, ngân hàng sẽ phải tập trung vào tái cơ cấu bộ máy, cắt giảm chi phí và áp dụng công nghệ nhằm nâng cao khả năng tự động hóa. Bên cạnh đó, chi phí về tuân thủ ngày càng tăng và việc áp dụng Basel II dẫn đến các ngân hàng sẽ phải lựa chọn khách hàng kỹ càng hơn để đảm bảo hoạt động hiệu quả. Ngân hàng sẽ chuyển dần trọng tâm từ hoạt động cho vay sang tư vấn và làm dịch vụ, tập trung vào kinh doanh bền vững thay vì tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi giá.Tôi hình dung đến năm 2020, công nghệ sẽ thay thế rất nhiều tác nghiệp con người đang làm hiện nay, như nhập liệu, xử lý số liệu, tương tác với khách hàng trong các giao dịch đơn giản... Chúng ta cũng sẽ chứng kiến sự hợp tác ngày càng chặt chẽ giữa ngân hàng với các công ty công nghệ tài chính (fintech)(*) để đưa các giải pháp công nghệ mới vào dịch vụ khiến công việc nhanh hơn, tiện lợi hơn và chi phí thấp hơn. Ngành ngân hàng cũng sẽ tận dụng giá trị của dữ liệu lớn (big data) về tập quán chi tiêu và thanh toán của khách hàng nhằm đưa ra các giải pháp tài chính phù hợp với từng khách hàng. Nhờ vào công nghệ, ngân hàng có khả năng sáng tạo ra những dịch vụ phù hợp với từng khách hàng. Mô hình mở rộng mạng lưới chi nhánh sẽ không còn phù hợp vì chi phí cao và không hiệu quả. Khách hàng sẽ sử dụng dịch vụ ngân hàng kỹ thuật số ngày càng nhiều hơn.
Số lượng các ngân hàng (cả trong nước và nước ngoài) sẽ giảm xuống. Các ngân hàng yếu kém trong nước sẽ bị sáp nhập hoặc đóng cửa. Các ngân hàng nước ngoài có thị phần quá nhỏ sẽ rút khỏi thị trường Việt Nam để tập trung vào thị trường cốt lõi. Khu vực ngân hàng trong nước sẽ lớn mạnh hơn và các ngân hàng toàn cầu sẽ tập trung hơn vào các khách hàng trọng tâm mà họ có thể mang lại giá trị từ quy mô toàn cầu của mình. Nhà đầu tư chiến lược của các ngân hàng trong nước sẽ chuyển dần từ các ngân hàng toàn cầu sang các quỹ đầu tư hoặc các ngân hàng trong khu vực. Do các quy định của Basel III không có lợi cho việc tính vốn đầu tư cổ đông nhỏ, các ngân hàng toàn cầu sẽ không mặn mà với việc duy trì một tỷ lệ sở hữu nhỏ tại ngân hàng trong nước và không nắm quyền kiểm soát.
Từ tất cả những điều trên, giới chuyên viên ngân hàng ngày càng phải chuyên nghiệp hơn và thành thạo nhiều kỹ năng khác nhau. Những chuyên viên kết hợp được các thế mạnh nghiệp vụ ngân hàng với kiến thức kinh tế và luật, thông thạo nhiều ngoại ngữ thì sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn.
Tuy nhiên đối với tôi, có những giá trị sẽ không thay đổi, đó là chất lượng dịch vụ vẫn sẽ là yếu tố tạo sự khác biệt giữa các ngân hàng. Do đó, ngân hàng nào có công nghệ tốt, không ngừng sáng tạo, chất lượng dịch vụ cao và quản trị bền vững thì sẽ phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
“Sau một số vụ sáp nhập, hệ thống ngân hàng đã trở nên gọn gàng hơn. Chúng tôi kỳ vọng xu hướng này sẽ còn tiếp diễn cho tới năm 2020 giúp cải thiện hơn nữa sự ổn định của hệ thống”. |
Ông Nirukt Sapru, CEO Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, kiêm nhiệm nhóm năm nước ASEAN và Nam Á gồm Brunei, Nepal, Philippines, Sri Lanka và Úc:
Tăng chất lượng tài sản của ngân hàng
- Theo dự đoán của chúng tôi, từ nay đến năm 2020, lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam sẽ tiếp tục được củng cố. Tuy lợi nhuận và vốn đầu tư phần nào vẫn hạn chế, song những yếu tố nền tảng cơ bản của các ngân hàng đã được cải thiện trong những năm gần đây. Sau một số vụ sáp nhập, hệ thống ngân hàng đã trở nên gọn gàng hơn. Chúng tôi kỳ vọng xu hướng này sẽ còn tiếp diễn cho tới năm 2020 giúp cải thiện hơn nữa sự ổn định của hệ thống.
Các ngân hàng đang dần giải quyết một số vấn đề về chất lượng tài sản sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chúng tôi kỳ vọng chất lượng tài sản sẽ tiếp tục được cải thiện khi các ngân hàng xử lý được các tài sản có vấn đề. Việc này giúp giải phóng vốn cho tăng trưởng tín dụng trong tương lai.
Giá bất động sản dần phục hồi cũng là tín hiệu tích cực cho ngành ngân hàng, và với sự tăng cường giám sát của các cơ quan quản lý, hy vọng giá bất động sản sẽ ổn định hơn. Việc tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trong thời gian gần đây cũng có lợi cho chất lượng tài sản của các ngân hàng, giúp giảm thiểu rủi ro liên quan đến bất động sản.
Các ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình nâng các tiêu chuẩn quản lý lên ngang tầm các nền kinh tế đang phát triển khác. Chúng tôi kỳ vọng đến năm 2020 sẽ có sự tiến bộ đáng kể trong việc tuân thủ các nguyên tắc của Basel II và Basel III. Điều này giúp cải thiện tính minh bạch và năng lực quản trị trong lĩnh vực ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc tái cơ cấu các đơn vị thuộc khu vực nhà nước và giảm bớt sự liên quan giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện và còn tiếp diễn trong thời gian tới sẽ giúp giảm thiểu rủi ro trong cho vay trực tiếp và rủi ro tập trung.
“Khoảng cách về tỷ trọng sản phẩm được phân phối đến khách hàng thông qua kênh ngân hàng truyền thống và phi truyền thống sẽ ngày càng ngắn lại, cho dù kênh truyền thống vẫn có một vị trí quan trọng nhất định”. |
Ông Hàn Ngọc Vũ, CEO, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB):
Số lượng ngân hàng giảm, công ty tài chính tiêu dùng tăng. Môi trường đầu tư minh bạch hợp “khẩu vị” nhà đầu tư nước ngoài
- Tôi cho rằng sẽ có những thay đổi về kênh phục vụ khách hàng theo hướng đa dạng hơn; các sản phẩm sáng tạo hướng đến khách hàng sẽ được ưu tiên phát triển; tư duy làm nghề và xây dựng đội ngũ sẽ có những thay đổi; hoạt động đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng cũng sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
Do nhu cầu sáp nhập, làm lành mạnh hệ thống, số lượng ngân hàng sẽ giảm đi. Tuy số lượng ngân hàng giảm nhưng số lượng các định chế tài chính sẽ tăng lên, đa dạng hơn về chủng loại và hoạt động trong thị trường chuyên biệt. Số lượng định chế tài chính nước ngoài có thể tăng nhưng họ sẽ hoạt động trong những lĩnh vực họ có thế mạnh, như tài chính tiêu dùng, thẻ tín dụng, sản phẩm đầu tư và sẽ tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM. Các ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty tài chính tiêu dùng mới được chuyển đổi mô hình hoạt động trong mảng tín dụng cá nhân. Trong mảng thanh toán, ngân hàng cũng sẽ chịu áp lực cạnh tranh nhiều hơn do sẽ có sự tham gia nhiều và sâu hơn của các công ty công nghệ tài chính (fintech).
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính, giao dịch với ngân hàng sẽ tăng cao nhưng tỷ lệ khách hàng đến các chi nhánh, giao dịch truyền thống sẽ giảm dần. Thay vào đó, họ được phục vụ, giao tiếp hoặc họ có thể chủ động giao dịch thông qua các kênh như Internet banking, mobile banking, trung tâm giao dịch hay nhân viên ảo hóa (virtual teller trên web chat), thậm chí là qua mạng xã hội... Tuy kênh ngân hàng phi truyền thống chưa thắng thế so với kênh truyền thống ở thời điểm hiện nay, song dễ dự đoán khoảng cách về tỷ trọng sản phẩm được phân phối đến khách hàng thông qua các kênh này sẽ ngày càng ngắn lại, cho dù kênh truyền thống vẫn có một vị trí quan trọng nhất định.
Và như đã nhận định về xu hướng gia tăng của các định chế tài chính trên thị trường chuyên biệt, các định chế buộc phải đa dạng hóa kênh bán hàng, trong đó “sự trải nghiệm của khách hàng” sẽ được lựa chọn làm kim chỉ nam cho việc phát triển.
Các ngân hàng cũng sẽ tập trung hơn vào mảng bán lẻ do nhu cầu sử dụng các sản phẩm ngân hàng bán lẻ, thẻ, tiêu dùng, đầu tư, bảo hiểm... phân phối qua kênh ngân hàng truyền thống và phi truyền thống tăng lên. Tỷ lệ doanh thu của sản phẩm bán lẻ sẽ tăng rất đáng kể so với doanh thu từ sản phẩm bán cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, tôi tin rằng cấu trúc cổ đông cũng như môi trường đầu tư của ngân hàng sẽ ngày càng minh bạch, rõ ràng hơn do công tác kiểm tra kiểm soát của cơ quan quản lý chặt chẽ hơn cùng với việc đưa các ngân hàng đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này sẽ thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài và sự đầu tư vào ngân hàng có xu hướng tăng. Mặc dù tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trong một định chế tài chính hiện chưa thay đổi, song tổng tỷ trọng của nhà đầu tư nước ngoài trong các định chế tài chính đã rất mở, tác động tích cực đến khẩu vị của nhà đầu tư nước ngoài và họ sẽ mạnh dạn tham gia thị trường hơn.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài khi muốn phát triển mạng lưới và thị phần tại Việt Nam, họ có xu hướng tham gia vốn trong một tổ chức có sẵn thay vì thành lập định chế tài chính mới, tuy nhiên, họ cũng yêu cầu được tham gia sâu hơn vào hoạt động quản trị, điều hành trong các ngân hàng mà họ đầu tư.
Một tổ chức phát triển đúng đắn được quản trị bởi sự tốt lên của kinh tế vĩ mô, khung pháp lý hoàn thiện và từ sự cải thiện những vấn đề nội tại của tổ chức đó, tức cần có hai yếu tố: (1) có hệ thống luật pháp của quốc gia tốt, và (2) có hệ thống quy định nội bộ, quy trình, điều lệ, văn hóa tổ chức tốt. Đây cũng là cơ sở để ngân hàng Việt Nam phát triển theo hướng đại chúng hóa.
(*) Fintech - các công ty công nghệ tài chính, được dùng để chỉ một phân nhánh các công ty công nghệ đang tham gia ngày càng sâu vào ngành tài chính - ngân hàng và cung cấp các dịch vụ như thanh toán di động (mobile payment), phát hành thẻ, chuyển tiền, vay nợ, gây quỹ..., thậm chí là cả quản lý tài sản.
Theo Thời báo KTSG