Chuyển đổi số đã, đang và sẽ giúp cho cho ngành nông nghiệp Việt Nam tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Với các hợp tác xã (HTX) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chuyển đổi số chính là đòn bẩy tăng trưởng khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là con đường ngắn nhất để các HTX nông nghiệp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình sản xuất và kinh doanh.
CƠ HỘI TỪ CHUYỂN ĐỔI SỐ
Chia sẻ tại Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” do Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chủ trì, Tạp chí Kinh Doanh tổ chức ngày 29/10/2025 tại Hà Nội, bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc HTX sản xuất dịch vụ nông sản Bản Quyền (xã Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn), chia sẻ câu chuyện về hành trình đưa nông sản miền núi vươn xa nhờ ứng dụng công nghệ số.
Theo chia sẻ từ bà Lan, HTX của bà hoạt động tại khu vực miền núi Đông Bắc, nơi có cộng đồng dân cư đa dạng gồm các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa… Trong đó, người Tày và Nùng chiếm gần một nửa dân số.
Tuy nhiên, theo bà Lan, chuyển đổi số đã mở ra cơ hội mới cho đồng bào miền núi. Nhờ nền tảng công nghệ, bà con có thể quảng bá, giới thiệu nông sản đặc sản của địa phương đến người tiêu dùng trong và ngoài nước mà không cần rời khỏi bản làng.
“Giờ đây, ngay cả khi ở trên núi, chúng tôi vẫn có thể giới thiệu sản phẩm của mình đến khắp mọi miền đất nước, thậm chí cả khách hàng quốc tế”, bà Lan chia sẻ.
Là doanh nghiệp có sản phẩm chủ yếu mang đi xuất khẩu, bà Vũ Thị Liễu, Founder và CEO CTCP nghiên cứu sản xuất và phát triển sợi Eco cho biết, công ty đang sản xuất sợi và vải từ lá dứa (lá khóm) – một phụ phẩm nông nghiệp rất dồi dào ở Việt Nam.
Bà Vũ Thị Liễu, Founder và CEO CTCP nghiên cứu sản xuất và phát triển sợi Eco
Chia sẻ về kỷ niệm lần đầu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, bà nhận thấy khách hàng đặt ra yêu cầu vô cùng khắt khe về truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong khi Eco chưa để ý đến vấn đề này. “Họ muốn biết rõ lá dứa lấy từ nông hộ nào, ai là người thu hoạch, người tách sợi, lô hàng được đóng gói trên pallet số bao nhiêu, nhập kho ngày nào, sản xuất ra sao, và quy trình kỹ thuật được áp dụng thế nào”, bà Liễu kể.
Đấy là thời điểm bà nhận thấy Eco cần phải bắt tay ngay vào chuyển đổi số để tạo ra và duy trì dữ liệu chính xác từ những người trực tiếp sản xuất. Đây cũng là con đường sáng để trong tương lai, Eco không chỉ đáp ứng được các yêu của người tiêu dùng tại xứ sở Phù Tang mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới.
Các chuyên gia có mặt tại diễn đàn cũng nhận định, chuyển đổi số đã, đang và sẽ giúp cho cho ngành nông nghiệp Việt Nam tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, dù đã có những bước tiến nhất định trong ứng dụng công nghệ số, nhưng phần lớn các HTX nông nghiệp vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, đối mặt với không ít rào cản về hạ tầng, nguồn lực và tư duy quản trị.
MỨC ĐỘ CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA HTX CẢ NƯỚC CÒN THẤP
Theo bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, trong một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh HTX Việt Nam, cho thấy mức độ chuyển đổi số của HTX cả nước mới chỉ đạt 32%. Trong số gần 35.000 HTX thì chỉ có 13,6% HTX đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện.
Bên cạnh đó, tâm lý e ngại thay đổi cũng là một trở ngại cho việc chuyển đổi số của các HTX nông nghiệp. Nhiều nông dân, thành viên HTX còn quen với phương pháp canh tác truyền thống và e ngại áp dụng công nghệ mới, cũng như thiếu niềm tin vào hiệu quả của công nghệ số.
“Một rào cản vô hình là vẫn còn nhiều HTX và các nông hộ hiểu chưa đúng bản chất của chuyển đổi số. Và một hiểu lầm phổ biến là đồng nhất chuyển đổi số với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như Trí tuệ nhân tạo (AI), Công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (Big Data) hay Internet vạn vật kết nối (IoT)”, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, nêu thực tế.
Đồng quan điểm, TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho hay, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp, đặc biệt trong khu vực kinh tế tập thể và HTX, vẫn còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay các nước EU.
Tại Trung Quốc, nền tảng số quốc gia về nông nghiệp đã được triển khai đến từng HTX, từng trang trại, gắn với hệ thống quản lý cấp địa phương. Ở Thái Lan, hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử được áp dụng bắt buộc đối với nông sản xuất khẩu.
Hay tại châu Âu, nông nghiệp số không chỉ dừng ở quản lý sản xuất mà còn được mở rộng sang thương mại carbon, định lượng tín chỉ carbon và phân bổ chính sách phát triển theo vùng. Điều này cho thấy họ đã hoàn thiện thể chế, hạ tầng và nền tảng dữ liệu để vận hành toàn diện hệ sinh thái số trong nông nghiệp.
"Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống truy xuất số vận hành đồng bộ, khiến chúng ta chậm hơn trong tiến trình hội nhập" - ông Thịnh nói.
Về thực trạng liên kết trong nông nghiệp, bên cạnh một số kết quả tích cực, Cục trưởng Thịnh cho rằng liên kết nông nghiệp của chúng ta vẫn bộc lộ 4 hạn chế lớn. Thứ nhất là tỷ lệ liên kết còn thấp – chỉ khoảng 25% HTX tham gia.
Thứ hai là liên kết chưa sâu, chủ yếu dừng ở khâu mua – bán, bao tiêu sản phẩm theo mùa vụ, thiếu chia sẻ rủi ro, lợi ích và đầu tư chung.
Thứ ba là thiếu cơ chế giám sát, dữ liệu và công cụ truy xuất, khiến việc kiểm soát chất lượng nông sản còn hạn chế.
Thứ tư là thiếu động lực đầu tư vùng nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp chỉ tham gia ở khâu tiêu thụ mà không đồng hành cùng nông dân trong quá trình sản xuất.
“Một trong những nguyên nhân quan trọng là năng lực của HTX còn yếu, hạ tầng sản xuất – kinh doanh hạn chế, nguồn lực đầu tư cho logistics, kho bảo quản, chế biến còn thiếu” – ông Ninh thẳng thắn nhận xét.
HƯỚNG ĐI ĐỂ ĐỘT PHÁ
Để chuyển đổi số trong các HTX nông nghiệp đi vào thực chất và đạt được thành công, bà Cao Xuân Thu Vân cho biết, Liên minh HTX Việt Nam đang đặt ra 4 giải pháp chính. Điều này cũng nhằm cụ thể hóa hành động của khu vực kinh tế hợp tác dựa trên Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thứ nhất, trong giai đoạn 2026 - 2030 cần tăng cường truyền thông, đào tạo các HTX nông nghiệp nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ số cho nông dân, thu hút nhân tài công nghệ thông tin về làm việc cho các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ hai, các HTX nông nghiệp cần được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn dài hạn, đơn giản hóa thủ tục vay nhằm nâng cấp thiết bị công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu, phần mềm quản lý phù hợp.
Thứ ba, Liên minh HTX Việt Nam phải đóng vai trò trung tâm điều phối hệ sinh thái HTX số. Nhất là thông qua việc xây dựng, phát triển và quản lý các nền tảng số, thúc đẩy số hóa quy trình hoạt động của các HTX nông nghiệp, kết nối, đào tạo và hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ, từ đó tạo ra một môi trường HTX số đồng bộ, hiệu quả và bền vững.
Thứ tư, Chính phủ cần ban hành Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số khu vực kinh tế tập thể, HTX giai đoạn 2026 - 2030 với nguồn ngân sách ổn định.
Bên cạnh đó là cần đẩy mạnh hỗ trợ số hóa và chuyển đổi xanh cho HTX nông nghiệp thông qua các mô hình liên kết đầu tư tập trung, tránh tình trạng đầu tư nhỏ lẻ, manh mún và dàn trải.
TS. Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ khẳng định, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục đồng hành cùng Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Liên minh HTX Việt Nam trong toàn bộ tiến trình chuyển đổi số nông nghiệp, nhằm hiện thực hóa mục tiêu “Mỗi hợp tác xã – một nền tảng số; mỗi nông dân – một công dân số”.
Tuy nhiên ông Ninh cũng đưa ra một số đề xuất. Thứ nhất, xây dựng kiến trúc số riêng cho khu vực HTX: Trong khung kiến trúc số của Bộ NN&MT, cần có tiểu hệ thống dành riêng cho Liên minh HTX và các HTX. Đây sẽ là công cụ kết nối dữ liệu, quản trị và giao dịch xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
Thứ hai, chuẩn hóa dữ liệu nông nghiệp quốc gia: Đề nghị bổ sung dữ liệu HTX vào nhóm 116 cơ sở dữ liệu quốc gia trọng điểm do Bộ Công an quản lý.
Thứ ba, đẩy nhanh nền tảng “Hợp tác xã số”: Đây sẽ là nền tảng dùng chung, giúp các HTX không phải tự thuê hoặc phát triển phần mềm quản lý riêng lẻ.
Thứ tư, mở rộng các sàn giao dịch công nghệ: Giúp HTX có thể tiếp cận, thuê hoặc mua các giải pháp số phù hợp.