Tiến độ triển khai cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2 ra sao?

Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) phát ra ngày 5/5 về dự án cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025 (giai đoạn 2) đến thời điểm này, 12/12 tỉnh có dự án đi qua đã có văn bản thỏa thuận hướng tuyến, công trình.
Tiến độ triển khai cao tốc Bắc – Nam giai đoạn 2 ra sao?

Cụ thể, về thỏa thuận hướng tuyến, hiện 12/12 tỉnh đã có văn bản thỏa thuận hướng tuyến và công trình; 9/10 dự án đã có ý kiến Bộ Quốc phòng. Riêng dự án thành phần Hậu Giang - Cà Mau chưa có ý kiến của Bộ Quốc phòng về hướng tuyến đi qua các khu vực đất quốc phòng do quá trình bàn giao cọc giải phóng mặt bằng mới phát hiện 2,79 ha đất quốc phòng quản lý đang nuôi trồng thủy sản. Dự kiến hoàn thành trước ngày 15/5/2022.

Đối với công tác khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu khả thi, toàn bộ 12 dự án thành phần đã hoàn thành công tác khảo sát hiện trường địa hình, địa chất, thủy văn.

Về mặt bằng, Bộ GTVT đã chấp thuận đợt 1 được 136,3 km mặt bằng, thẩm định 483,3 km, đạt 619,6 km/729 km (85%). Các đoạn còn lại khoảng 109,4 km sẽ thẩm định xong trước ngày 30/6/2022. Tính đến ngày 30/4, dự án đã bàn giao cho địa phương được 424,8 km/729 km (58% mặt bằng), dự kiến sẽ bàn giao toàn bộ 619 km vào ngày 15/5.

“Tiến độ cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2021-2025 đáp ứng Nghị quyết 18/CP của Chính phủ. Công tác khảo sát, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cuả 12/12 dự án cũng đã có văn bản gửi Bộ TN&MT thẩm định báo cáo...”, Bộ GTVT thông tin.

Với công tác lập khung chính sách giải phóng mặt bằng, Bộ TN&MT đã có ý kiến thẩm tra 6/6 dự án. Trong đó, 2/6 dự án đã có văn bản tiếp thu và giải trình và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gồm dự án: Vũng Áng - Bùng và Vạn Ninh - Cam Lộ.

Đánh giá về tình hình triển khai dự án cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2 trong thời gian qua, Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ cho rằng, một trong những đột phá lớn nhất chính là thời gian thực hiện các thủ tục phục vụ công tác giải phóng mặt bằng.

Dẫn chứng cho nhận định này, theo Thứ trưởng Lê Đình Thọ, dự án xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 1 là dự án quan trọng quốc gia, được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư ngày 22/11/2017 với 11 dự án thành phần, tổng chiều dài 654km đi qua địa phận 13 tỉnh.

Xác định mặt bằng là nút thắt của dự án và cần đi trước một bước, ngay sau khi dự án được phê duyệt, Bộ GTVT đã chỉ đạo các Ban quản lý dự án, tư vấn thiết kế lập hồ sơ cắm cọc giải phóng mặt bằng và bàn giao cho các địa phương để kịp thời triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Tuy nhiên, do dự án cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 1 được triển khai thực hiện theo thủ tục, trình tự pháp luật thông thường nên thời gian từ lúc chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng đến khởi công dự án thường mất từ 2 - 3 năm.

Đến tháng 4/2019, Bộ GTVT bắt đầu bàn giao cọc giải phóng mặt bằng cho các địa phương và đến tháng 9/2020 mới khởi công những gói thầu đầu tiên. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện trong khoảng thời gian trung bình từ 17 - 20 tháng.

Cho đến nay sau 3 năm triển khai thực hiện, vẫn còn khoảng 0,1% chiều dài tuyến còn vướng mặt bằng và một số công trình hạ tầng kỹ thuật, hoặc một số hạng mục công trình đã được bồi thường nhưng chưa được di dời.

Đối với dự án Cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2 (2021-2025) được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại Nghị quyết 44/2022/QH15 ngày 11/1/2022, với tổng chiều dài khoảng 729 km, đi qua địa phận 12 tỉnh, thành phố, với sơ bộ tổng mức đầu tư 146.990 tỷ đồng theo hình thức đầu tư công.

Theo tính toán sơ bộ, nhu cầu sử dụng đất khoảng 5.481 ha, số hộ dân bị ảnh hưởng là 14.983 hộ, số hộ tái định cư khoảng 11.905 hộ; tổng khối lượng vật liệu đắp nền đường cho 12 dự án khoảng 85,94 triệu m3. Dự án giai đoạn 2 được chia thành 12 dự án thành phần vận hành độc lập, tổ chức triển khai thi công trong năm 2022, cơ bản hoàn thành năm 2025 và đưa vào khai thác vận hành từ năm 2026.

Khác với giai đoạn 1, để đảm bảo tiến độ thực hiện giai đoạn 2 theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành cơ chế theo thẩm quyền cho phép triển khai đồng thời một số công việc liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngay từ trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Nhờ vậy, Bộ GTVT đã rà soát, tổ chức lập, phê duyệt, bàn giao hồ sơ thiết kế cắm cọc giải phóng mặt bằng cho các địa phương theo từng giai đoạn tùy theo mức độ phức tạp về kỹ thuật của từng đoạn tuyến, cơ bản hoàn thành trước ngày 30/6 tới.

Các địa phương khẩn trương thực hiện các công tác liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; đảm bảo bàn giao 70% diện tích mặt bằng của các gói thầu xây lắp khởi công cuối năm 2022 và bàn giao toàn bộ diện tích còn lại trong Quý II/2023.

Đến nay, các Ban quản lý dự án đã phê duyệt hồ sơ thiết kế cắm cọc giải phóng mặt bằng, bàn giao cho địa phương 424,8km trong tổng số 729 km của toàn dự án cao tốc.

Như vậy, tính từ thời điểm Quốc hội có chủ trương đầu tư, thời gian để Bộ Giao thông Vận tải hoàn thành bàn giao hồ sơ, cắm cọc giải phóng mặt bằng cho địa phương chỉ khoảng 5 tháng; thời gian chuẩn bị đầu tư, khởi công dự án chỉ khoảng 10 tháng, công tác giải phóng mặt bằng sẽ được hoàn tất trong thời gian khoảng 18 tháng.

Dự án đầu tư xây dựng cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 dài 729km đi qua địa phận 12 tỉnh, thành gồm các đoạn: Hà Tĩnh - Quảng Trị dài 267 km, Quảng Ngãi - Nha Trang dài 353 km và Cần Thơ - Cà Mau dài 109 km. Dự án được chia thành 12 dự án thành phần với tổng mức đầu tư sơ bộ khoảng 146.990 tỷ đồng theo hình thức đầu tư công.

Xem thêm

Có thể bạn quan tâm

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trả lời chất vấn trước Quốc hội

Chính phủ đề xuất tái khởi động dự án điện hạt nhân

Để đảm bảo nguồn điện cung ứng trước mắt và lâu dài, Chính phủ đã áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có việc thực hiện đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi...

Toàn cảnh bức tranh kinh tế 10 tháng năm 2024 qua các con số

Toàn cảnh bức tranh kinh tế 10 tháng năm 2024 qua các con số

Trong 10 tháng năm 2024, kinh tế Việt Nam đạt kết quả tích cực trong nhiều lĩnh vực như: Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 11,8% (so với cùng kỳ năm 2023); Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng ổn định; Số doanh nghiệp thành lập mới “hồi sinh”...