Nợ xấu nội bảng đang tăng trở lại

Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng trong hệ thống ngân hàng ước đến cuối tháng 6/2019 là 1,91%, vượt qua tỷ lệ 1,89% của cả năm 2018.
Nợ xấu nội bảng đang tăng trở lại

Dù tỷ lệ tăng không lớn và vẫn nằm dưới 2%, nhưng hướng tăng mở rộng tại nhiều thành viên trong bối cảnh mẫu số tổng dư nợ để tham chiếu mở rộng khá nhanh. Trước đó, trong giai đoạn năm 2016-2018, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có xu thế giảm dần lần lượt là 2,46%, 1,99% và 1,89%.

Theo đánh giá của giới chuyên gia, số nợ xấu mới này chủ yếu đến từ việc các ngân hàng ngày càng đẩy mạnh phát triển mảng ngân hàng bán lẻ, mở rộng cho vay cá nhân, tài chính tiêu dùng. Đây vốn là mảng mang về lãi biên cao hơn nhưng lại tiềm ẩn rủi ro cao hơn rất nhiều so với mảng tín dụng truyền thống.

Thống kê sơ bộ tổng giá trị nợ xấu của 25 ngân hàng đang khoảng 86.000 tỷ đồng, tăng khoảng hơn 8% so với cuối 2018 (trong khi tín dụng chỉ tăng hơn 7%). Riêng nhóm Big3 (Vietcombank, BIDV và  Vietinbank), con số nợ xấu lên tới trên 41.000 tỷ đồng. 

Ngoài việc tăng nợ xấu mới do các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tín dụng thì cũng có một tỷ trọng nợ xấu do các khoản nợ xấu đã bán cho VAMC được các ngân hàng mua lại.

Cụ thể, từ tháng 10/2013, VAMC bắt đầu mua lại nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đến tháng 9/2015, NHNN đã hoàn thành được yêu cầu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng về mức 3%.

Tuy nhiên, đây không phải là hình thức mua đứt, bán đoạn, mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn thuộc về ngân hàng. Và theo cơ chế, khoản nợ xấu đã bán cho VAMC sau 5 năm nếu chưa được xử lý sẽ quay trở về ngân hàng và trả lại trái phiếu đặc biệt cho VAMC.

Tính đến thời điểm hiện tại, thời hạn 5 năm của các khoản nợ xấu nêu trên đã lần lượt trôi qua, một lượng trái phiếu đặc biệt đã được đáo hạn đồng nghĩa với việc các khoản nợ chưa xử lý được sẽ lần lượt quay về với điểm xuất phát.

Trong khi đó, theo đánh giá của Kiểm toán Nhà nước trong một báo cáo công bố mới đây, thì trong những năm qua, VAMC chưa thực hiện vai trò trong việc mua nợ và xử lý nợ xấu.

Điều này được thể hiện qua việc tổ chức này không thực hiện thẩm định giá mua (giá mua bằng dư nợ trừ dự phòng rủi ro do tổ chức tín dụng tự xác định); không kiểm tra, đánh giá khách hàng vay, tính trung thực, chính xác của hồ sơ, tài liệu và tài sản đảm bảo của khoản nợ...

Bên cạnh đó, VAMC xử lý nợ xấu sau khi mua chủ yếu thông qua việc ủy quyền lại cho các tổ chức tín dụng bán nợ.

Trong khi đó, việc xử lý nợ xấu tồn đọng trước đây theo Nghị quyết 42 vẫn còn gặp những vướng mắc đáng kể. Theo chuyên gia ngân hàng, TS Cấn Văn Lực, thực tế việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 còn nhiều vướng mắc, trong đó vướng mắc lớn nhất vẫn là quyền thu giữ tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn rất hạn chế, gần như chưa có vụ án nào được áp dụng trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn. Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc trong thủ tục sang tên, chuyển nhượng tài sản đảm bảo, sự thiếu đồng bộ, nhất quán và quyết liệt của các bên tham gia xử lý nợ xấu, sự thiếu vắng của một thị trường mua bán nợ thực sự…

Về các khoản nợ xấu mới, theo phân tích của CTCK VnDirect, khác với trước đây nợ xấu các ngân hàng chủ yếu đến từ các khoản cho vay với mục đích đầu cơ và các hoạt động không phải ngành kinh doanh chính (như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản) và cho vay các khoản đầu tư không hiệu quả của doanh nghiệp quốc doanh.

Hiện tại, nợ xấu sẽ tăng nhiều nhất ở các ngân hàng mở rộng trong mảng bán lẻ, đặc biệt là tài chính tiêu dùng do hoạt động này rủi ro cao.

Thực tế, dù lợi nhuận của các ngân hàng không ngừng đi lên cùng những con số kỷ lục nhưng áp lực nợ xấu cùng đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn đang là vấn đề lớn mà các ngân hàng phải đối mặt. Nếu sa đà vào tăng trưởng tín dụng mà không kiểm soát tốt nợ xấu thì bài toán xử lý nợ xấu sẽ ngốn không ít nguồn lực của nhiều ngân hàng trong những năm tới.

 >> Xử lý nợ xấu tiếp tục là mục tiêu “nóng” trong 6 tháng cuối năm

Có thể bạn quan tâm

Lãi suất huy động ngân hàng ACB: Đi ngang trong tháng 11/2024

Lãi suất huy động ngân hàng ACB: Đi ngang trong tháng 11/2024

Khảo sát đầu tháng 11 cho thấy, biểu lãi suất huy động được ngân hàng ACB tiếp tục duy trì ổn định tại tất cả các kỳ hạn. Do đó, khung lãi suất hiện đang dao động trong khoảng 2,3 – 4,5%/năm đối với kỳ hạn 1 tháng đến 36 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ…

Ngân hàng Sacombank giữ nguyên biểu lãi suất tiết kiệm trong tháng 11/2024

Ngân hàng Sacombank giữ nguyên biểu lãi suất tiết kiệm trong tháng 11/2024

Sang tháng mới, ngân hàng Sacombank duy trì ổn định khung lãi suất huy động cả hình thức gửi tiết kiệm truyền thống và trực tuyến. Theo đó, khách hàng gửi tiết kiệm truyền thống được hưởng lãi suất trong khoảng 2,8 – 5,2%/năm, áp dụng cho kỳ hạn 1 tháng đến 36 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ…

Cập nhật biểu lãi suất huy động ngân hàng HDBank tháng 11/2024

Cập nhật biểu lãi suất huy động ngân hàng HDBank tháng 11/2024

Qua so sánh, biểu lãi suất tiền gửi ngân hàng HDBank trong tháng này được duy trì ổn định so với cùng kỳ. Do đó, 3,35 - 8,1%/năm là khung lãi suất được áp dụng khách hàng cá nhân, kỳ hạn 1 tháng đến 36 tháng, hình thức lĩnh lãi cuối kỳ…

Ngân hàng BIDV duy trì khung lãi suất huy động trong tháng 11/2024

Ngân hàng BIDV duy trì khung lãi suất huy động trong tháng 11/2024

Theo khảo sát mới nhất, khung lãi suất tiết kiệm ngân hàng BIDV dành cho khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp không có sự thay đổi so với tháng trước. Qua so sánh, 4,7%/năm là mức lãi suất cao nhất được áp dụng cho các khoản tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng đến 36 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ…

Tăng trưởng lành mạnh và bền vững, TPBank báo lãi gần 5.500 tỷ đồng

Bức tranh lợi nhuận tươi sáng của TPBank

Cuộc đua trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt, tuy nhiên TPBank vẫn luôn giữ vững vị thế, với kết quả kinh doanh quý 3, một lần nữa khẳng định năng lực cạnh tranh vượt trội của ngân hàng này...