Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang hoàn tất dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của chính sách về việc xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng.
Báo cáo cho biết, trong những năm gần đây, những đổi mới, sáng tạo về công nghệ tài chính đã đem lại lợi ích lớn đối với các tổ chức ngân hàng – tài chính bằng cách bổ khuyết hoặc giải quyết tính thiếu hiệu quả trong sản phẩm, dịch vụ tài chính hiện hành như giới hạn về thời gian, địa điểm giao dịch, điểm tiếp xúc khách hàng theo kênh vật lý, nhận biết và xác thực khách hàng cũng như quy trình, thủ tục giao dịch tương đối phức tạp.
Fintech cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phổ cập tài chính quốc gia thông qua tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính đối với một bộ phận người dân chưa có tài khoản ngân hàng hoặc gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng truyền thống.
Đặc biệt, Fintech trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng được NHNN nhìn nhận sẽ là một cấu phần quan trọng để đạt được mục tiêu “Chính phủ số và nền kinh tế số” trong cuộc CMCN 4.0 mà nhiều nước đang hướng tới trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, sự xuất hiện và phát triển với tốc độ của Fintech đã khiến các cơ quan quản lý của các quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong công tác quản lý, giám sát do những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố, rủi ro liên quan tới an ninh, an toàn, bảo mật thông tin, sử dụng trái phép thông tin cá nhân...
Hiện, số lượng công ty cung ứng giải pháp fintech đã tăng nhanh chóng từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016 lên đến hơn 150 công ty ở thời điểm hiện tại và tập trung hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực ngân hàng.
Riêng trong lĩnh vực thanh toán, các công ty cung ứng giải pháp fintech chiếm tỷ trọng lớn với 34 tổ chức trung gian thanh toán đã được NHNN cấp giấy phép. Trong lĩnh vực cho vay ngang hàng (P2P lending), có khoảng 40 công ty cung ứng dịch vụ dưới hình thức dịch vụ công nghệ.
Về pháp lý, cơ chế quản lý chung và khuôn khổ pháp lý điều chỉnh đối với từng hoạt động fintech cụ thể chưa được đề cập tại bất kỳ văn bản pháp lý cụ thể nào. Các lĩnh vực fintech đang phát triển phổ biến tại một số quốc gia trên thế giới (như P2P lending, chia sẻ dữ liệu cá nhân, xác thực khách hàng điện tử, ứng dụng công nghệ blockchain…) bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam, nhưng đều chưa được quy định quản lý tại các văn bản pháp lý chính thức.
Đơn cử như lĩnh vực P2P lending, pháp luật hiện hành chưa có quy định điều chỉnh trực tiếp và cũng không cấm trừ trường hợp hoạt động này được xác định là hoạt động ngân hàng và hiện áp dụng theo các quy định của Bộ luật Dân sự.
Do đó, theo NHNN, nhiệm vụ đặt ra với các cơ quan quản lý là phải đảm bảo đồng thời mục tiêu hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khi vẫn phải duy trì sự ổn định, an toàn của thị trường tài chính và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Để làm được điều này cần nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Fintech, thiết kế khuôn khổ thử nghiệm, bao gồm quy định đối tượng tham gia, luồng quy trình quản trị, các tiêu chí đo lường kết quả cũng như quy trình trước, trong và sau khi hoàn thành thử nghiệm.
Theo Luật sư Trương Thanh Đức, ban hành khung pháp lý thử nghiệm là việc cần làm nhanh để phù hợp với thực trạng và sự phát triển của thị trường, song phải đưa ra những quy định, hàng rào thật rõ ràng nhưng không gây khó khăn. “Làm chặt quá thì không khuyến khích phát triển, nhưng lĩnh vực này mà làm lỏng hoặc dễ dãi thì rất rủi ro, còn chung chung thì càng khó”, ông Đức nhấn mạnh.