“Nhìn chung về tổng thể CPTPP thực thi là có lợi cho Việt Nam. Chúng tôi dự báo tác động của CPTPP với Việt Nam vào khoảng 1,3% GDP. Nếu có những mở cửa lớn hơn về dịch vụ, thì mức tăng trưởng GDP tăng thêm có thể lên tới 2,1%”, ông Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Dự báo kinh tế ngành và doanh nghiệp, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội Quốc gia (NICF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định.
Cũng theo ông Trần Toàn Thắng, những con số này chưa tính đến tác động từ đầu tư cũng như từ sức ép cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước.
Trả lời phỏng vấn TTXVN, phân tích cụ thể hơn, ông Thắng cho rằng năm 2019 là năm đầu tiên thực thi CPTPP, một số nhóm hàng sẽ bắt đầu có thuế quan bằng 0, một số nhóm bắt đầu lộ trình cắt giảm dài hơn. Tuy nhiên điều đáng nói là sự kỳ vọng.
Nhà đầu tư nước ngoài có thể tăng kỳ vọng vào triển vọng kinh tế tốt hơn ở Việt Nam, doanh nghiệp nội địa thì cũng kỳ vọng vào tăng trưởng trong nước, kéo theo cầu về hàng hoá tăng. Kỳ vọng tăng sẽ kéo theo đầu tư tăng, theo đó có thể tạo ra những tiềm năng tốt cho tăng trưởng trong năm 2019.
Về xuất nhập khẩu, trong dự báo của NICF thì xuất khẩu tăng khoảng 4%, nhập khẩu khoảng dưới 3,8% tăng thêm. Theo ông Thắng, năm 2018 thặng dư thương mại tăng đột biến ngoài những tác động từ các sự kiện khác như căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, đây cũng là một biểu hiện cho thấy tác động do kỳ vọng triển vọng tích cực về mặt vĩ mô. Triển vọng này sẽ tạo thuận lợi cho ổn định các chỉ số vĩ mô khác, bao gồm dự trữ ngoại hối, khả năng kiểm soát về tỷ giá...
Đáng lưu ý, theo ông Thắng, doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới có thể giúp Việt Nam thay đổi được công nghiệp phụ trợ. Nghĩa là Việt Nam có thể thu hút các doanh nghiệp FDI ngành công nghiệp phụ trợ chứ không phải là đơn thuần lắp ráp. Đây là điểm tích cực từ CPTPP.
Mặt khác, cán cân thương mại với Trung Quốc cũng có thể thay đổi, giảm dần được thâm hụt như hiện nay do các doanh nghiệp FDI sản xuất linh phụ kiện ngay tại Việt Nam. Do đó, có thể thấy yếu tố “nguồn gốc xuất xứ” sẽ ảnh hưởng và quyết định rất lớn tới khả năng hiện thực hóa lợi ích từ CPTPP.
Tuy nhiên, ông Thắng lo ngại do tác động của CPTPP, tốc độ tăng trưởng sản lượng của một số ngành có thể giảm, bao gồm chăn nuôi, chế biến thực phẩm và dịch vụ bảo hiểm.
“Theo tôi, nếu tính cả các góc độ tăng trưởng của ngành, xuất nhập khẩu của ngành cộng với việc phẩn bổ lợi ích các nhóm trong xã hội thì ngành nông nghiệp có thể bị tác động nhiều nhất. Đặc biệt là ngành chăn nuôi, Việt Nam không có lợi thế và bị tác động. Theo đó, nếu ngành chăn nuôi bị ảnh hưởng thì đại bộ phận người thu nhập thấp sẽ bị ảnh hưởng”, ông Thắng nói.
Ngoài ra, khi CPTTP có hiệu lực, việc thu ngân sách cũng là vấn đề lớn. Có rất nhiều bài toán cho thấy, Việt Nam đang kỳ vọng vào việc lấy thuế nội địa để bù cho thuế nhập khẩu. Ông Thắng cho rằng đây là một thách thức lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết.
Sức ép cải cách thể chế
Theo TS. Nguyễn Toàn Thắng, Đại học Luật Hà Nội, với vấn đề thực thi các cam kết về đầu tư trong CPTPP, Việt Nam có điều kiện tốt hơn để thu hút FDI từ các nước thành viên khác, nhất là với các nước mà Việt Nam chưa có thỏa thuận Hiệp định thương mại tự do (FTA) như Canada, Mexico. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các tập đoàn kinh tế lớn tìm kiếm thị trường đầu tư tại các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, TS. Thắng bày tỏ, việc tham gia CPTPP cũng đặt ra những vấn đề cho Việt Nam trong việc thực thi các cam kết. Việc đánh giá mức độ tương thích giữa hệ thống pháp luật Việt Nam với các cam kết trong CPTPP là rất cần thiết. Điều đó tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam trong việc thực thi các nghĩa vụ thành viên. Từ đó, hiện thực hóa những cơ hội mà Việt Nam có được.
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, Việt Nam đã chứng kiến bài học từ các FTA trước đây. Các Hiệp định này đều được dự báo sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các ngành hàng của Việt Nam, nhưng trên thực tế không được như vậy.
Riêng các lợi ích từ ưu đãi thuế quan, trung bình mới chỉ tận dụng được chưa đầy 40%, chủ yếu thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài. Số còn lại vì nhiều lý do khác nhau, đã tuột khỏi tay doanh nghiệp Việt. Từ thực tiễn này, nhiều chuyên gia cho rằng, việc quan trọng là phải có động thái cải cách cơ chế mạnh mẽ hơn, cải thiện môi trường kinh doanh...
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại đa biên (Bộ Công Thương) Ngô Chung Khanh, để thực thi tốt và đón cơ hội từ CPTPP, Việt Nam cần điều chỉnh và sửa đổi nhiều quy định pháp luật về thương mại, hải quan, lao động, sở hữu trí tuệ...
“Chúng ta sẽ phải sửa ít nhất 7 Luật, cùng hàng chục Nghị định, văn bản dưới luật để đưa khung khổ pháp lý Việt Nam gần hơn với chuẩn mực hiện đại. Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát hệ thống văn bản pháp luật; trực tiếp áp dụng nhiều cam kết, nhất là trong lĩnh vực mở cửa dịch vụ và đầu tư”, ông Khanh nói.
Ông Ngô Chung Khanh cũng nhận định, các cam kết trong CPTPP về dịch vụ và đầu tư sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần duy trì đà tăng trưởng của đầu tư trong nước và nước ngoài. Do vậy, Việt Nam sẽ phải duy trì được đà cải cách liên tục, có chất lượng.
Theo TS. Ngô Tuấn Anh, Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam là nước hội nhập muộn hơn so với các nước đàm phán CPTPP, khoảng cách giữa đòi hỏi của CPTPP và năng lực thực tế của Việt Nam là không nhỏ. Vì vậy, cần nỗ lực hoàn thiện thể chế kinh tế, khung khổ pháp lý, chế tài thực thi để có thể đáp ứng những cam kết trong Hiệp định. Đây cũng là thách thức đối với Việt Nam khi mà khả năng hoạch định và thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế.
Chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành cũng cho rằng CPTPP là Hiệp định chất lượng cao, đòi hỏi Việt Nam cần phải có những bước cải cách đột phá mạnh mẽ trong rất nhiều lĩnh vực để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp…
Theo Thành Đạt/Chinhphu.vn