Dự án năng lượng tái tạo của Việt Nam vẫn hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài

Tiềm năng của các dự án năng lượng tái tạo của Việt Nam rất lớn, nhất là khi các nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng rót vốn ưu đãi vào lĩnh vực này. Tuy nhiên còn nhiều quan ngại về hợp đồng mua bán điện.
Dự án năng lượng tái tạo của Việt Nam vẫn hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài

Chia sẻ tại một hội thảo vừa diễn ra, bà Stephanie Betant, Giám đốc toàn quốc Khối Dịch vụ Ngân hàng doanh nghiệp, HSBC Việt Nam đã chia sẻ vấn đề tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn tại Việt Nam, cũng như những quan ngại hiện tại của nhà đầu tư và khuyến nghị của ngân hàng này.

Theo nghiên cứu của HSBC, Việt Nam được xếp hạng là điểm đến đầu tư tốt nhất cho năng lượng tái tạo ở ASEAN nhờ một số yếu tố như nguồn tài nguyên sẵn có. Nhu cầu về điện tăng và mục tiêu của chính phủ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cũng như mục tiêu tuyệt đối về năng lượng tái tạo (khoảng 30% năng lượng sử dụng của Việt Nam năm 2030 sẽ là năng lượng gió và năng lượng mặt trời).

Bà Stephanie Betant cho rằng: “Khoản đầu tư lớn này sẽ dẫn đến một “lỗ hổng tài trợ”, cho cả Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các nhà sản xuất điện độc lập, phát sinh nhu cầu đối với dòng vốn quốc tế. Với những giới hạn của các nhà cho vay trong nước, bao gồm hạn mức tăng trưởng tín dụng và hạn mức cho vay tối đa với một khách hàng, vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài rất quan trọng khi dự án greenfield bắt đầu được xây dựng”.

Theo đó, các hình thức tài trợ khá đa dạng, bao gồm thông qua cơ quan tín dụng xuất khẩu (ECA). Tuy nhiên, loại hình tài trợ tín dụng này vẫn còn hạn chế ở Việt Nam.

Các công ty năng lượng tái tạo của Việt Nam đã phát hành trái phiếu trong nước, tuy nhiên, thị trường nước ngoài hiện vẫn còn bỏ ngỏ. Các nhà đầu tư quốc tế vẫn thận trọng với thị trường năng lượng tái tạo của Việt Nam, mong đợi sự bảo đảm của các ngân hàng địa phương đối với các lựa chọn thanh toán của bên vay để giảm thiểu những lo ngại về việc cắt giảm, chấm dứt hợp đồng…

Do sự phức tạp và nhạy cảm tiềm ẩn xung quanh, các công ty điện gió ngoài khơi lớn trên toàn cầu đã hợp tác với các đối tác phát triển địa phương cho các dự án đầu tiên ở trong nước. Ví dụ, công ty năng lượng bền vững toàn cầu Orsted, đang hợp tác với Tập đoàn T&T, một công ty đa ngành hàng đầu của Việt Nam, để cùng phát triển dự án điện gió ngoài khơi có công suất khoảng 10GW ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.

Quan ngại về hợp đồng mua bán điện

Bà Stephanie Betant cũng chỉ ra rất nhiều lo ngại phát sinh về khả năng vay vốn đối với hợp đồng mua bán điện hiện tại.

Rủi ro giảm giá điện và cắt giảm điện, hiện nay hợp đồng mua bán điện không bảo vệ bên bán trong trường hợp nhà máy có thể phát điện nhưng EVN không thể tiếp nhận điện. Bên cạnh đó, việc truy cập vào dữ liệu trước đây về việc cắt giảm điện bị hạn chế đã gây khó khăn trong việc theo dõi dòng tiền tương lai, điều này đặc biệt quan trọng đối với các cấu trúc tài trợ dự án không truy đòi. Do đó, ở tình trạng hiện tại cần có sự bảo lãnh từ doanh nghiệp và ngân hàng địa phương.

Rủi ro pháp lí, hợp đồng mua bán điện (PPA) không bảo vệ người bán một cách rõ ràng trước những thay đổi của luật pháp. Do đó, các dự án có thể gặp phải những thay đổi bất lợi về luật pháp, điều này cũng có thể ảnh hưởng khả năng theo dõi dòng tiền tương lai.

Bất khả kháng và chấm dứt hợp đồng, không có bất kỳ điều khoản gia hạn hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng hoặc EVN không thực hiện thanh toán. Ví dụ, mẫu PPA hiện tại áp dụng cho năng lượng mặt trời giới hạn thiệt hại trong một năm doanh thu. Hơn nữa, PPA hiện tại áp dụng cho điện gió không nêu rõ liệu nó có bao gồm toàn bộ các khoản nợ ưu tiên trong trường hợp chấm dứt hợp đồng hay không, bao gồm mọi chi phí phá vỡ hợp đồng liên quan vì chỉ nhắc tới “tổn thất trực tiếp”, khoản “tổn thất trực tiếp” này có thể chỉ là khoản thanh toán bị bỏ sót trong PPA.

Góp ý về vấn đề này, bà Stephanie Betant cho biết: “Chính sách quốc tế cũng đang được cải thiện để biến cơ sở hạ tầng thành một loại tài sản và thúc đẩy cơ sở hạ tầng bền vững. Hệ thống “Thúc đẩy Tài trợ các Cơ sở Hạ tầng Bền vững” (Fast-Infra) nhằm mục đích thiết lập một hệ thống gắn nhãn thống nhất, có thể áp dụng toàn cầu cho các khoản đầu tư vào nhiều loại tài sản cơ sở hạ tầng bền vững bao gồm năng lượng tái tạo và truyền tải, phân phối năng lượng và điện.

Thông qua hệ thống gắn nhãn này, thị trường có thể dễ dàng báo hiệu tính bền vững của tài sản, nhờ đó các nhà đầu tư biết rằng tiền của họ sẽ được chuyển đến các dự án đáp ứng các nhu cầu về môi trường, xã hội, khả năng phục hồi, quản trị và đóng góp cho các mục tiêu phát triển bền vững”.

Việc phát hành trái phiếu xanh, xã hội, bền vững và liên kết bền vững (GSSS) tại thị trường Việt Nam là một điểm cộng, cải thiện điểm số ESG của quốc gia và thu hút các nhà đầu tư quốc tế. Ngoài ra, quá trình phát triển các khung pháp lý cho GSSS là một cách thức tuyệt vời để bộ phận lập kế hoạch, tài chính, chi tiêu thống nhất và nỗ lực vì sứ mệnh tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn.

Có thể bạn quan tâm