Hiến kế cho doanh nghiệp xuất khẩu “tìm vàng” trong bão thuế

Trong bối cảnh áp lực thuế quan thương mại gia tăng, các chuyên gia đã đưa ra nhiều hiến kế giúp doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khai thác hiệu quả các thị trường mới và củng cố vị thế tại những thị trường truyền thống…

Thế giới đang đứng trước những biến động địa chính trị phức tạp, làm thay đổi căn bản cấu trúc kinh tế toàn cầu và tái định hình chuỗi giá trị. Trong khuôn khổ “Diễn đàn kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới”, các chuyên gia kinh tế, nhà khoa học và đại diện doanh nghiệp đã cùng nhau phân tích những tồn tại, thách thức nhằm tháo gỡ vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các sản phẩm mang thương hiệu Việt có thể vươn xa và chinh phục nhiều thị trường mới.

Trong 7 tháng đầu năm, kinh tế Việt Nam đã ghi nhận những kết quả tích cực, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn tăng tốc. Tổng vốn FDI đăng ký đạt gần 24,1 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ, trong khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,3%. Đáng chú ý, hoạt động xuất khẩu đã vươn lên mạnh mẽ với mức kim ngạch kỷ lục 42,26 tỷ USD trong tháng 7, góp phần nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng lên 262,44 tỷ USD, tăng 14,8%.

Những thành quả này đến từ niềm tin kinh doanh được bồi đắp bởi những đổi mới mang tính chất cách mạng của các chính sách và chủ trương mới. Minh chứng rõ nét là trong 7 tháng qua, đã có trên 174.000 doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường với tổng vốn đăng ký bổ sung lên tới 3,3 triệu tỷ đồng, tăng 93,7%. Cùng với đó, gần 536,2 nghìn hộ kinh doanh được thành lập mới, tăng 165%, cho thấy sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp.

Bên cạnh thuận lợi là không ít những thách thức lớn doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối diện. Ngay đầu tháng 8, việc Mỹ áp dụng mức thuế đối ứng mới 20% đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã gây ra những lo ngại đáng kể. Diễn biến này không chỉ ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu mà còn gia tăng áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước.

Cùng với đó, nhiều thị trường lớn cũng đang áp dụng các rào cản phi thuế quan ngày càng khắt khe, đặc biệt là các yêu cầu về môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Điều này buộc các doanh nghiệp Việt phải nhanh chóng đầu tư vào chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, đồng thời tăng tỷ lệ nội địa hóa để đáp ứng quy tắc xuất xứ và đảm bảo tính minh bạch.

Đưa ra giải pháp làm nổi bật năng lực chủ động của doanh nghiệp, theo GS.TS Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội, việc thâm nhập thị trường mới không chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn mà còn phải tạo cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thậm chí là siêu nhỏ, những đối tượng có nhiều sản phẩm đặc thù phù hợp với thị trường ngách.

Tuy nhiên, để các doanh nghiệp này vươn mình ra biển lớn, cần có sự liên kết chặt chẽ để tạo ra những thương hiệu đủ sức cạnh tranh. Để hiện thực hóa mục tiêu này, ông Cường đã đề xuất các giải pháp trọng tâm. Trước hết, cần phát huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng và chính quyền địa phương trong việc tìm kiếm "cánh chim đầu đàn" để dẫn dắt, kết nối các doanh nghiệp và trực tiếp nhận hỗ trợ từ Nhà nước.

Thứ hai, Nhà nước cần có chính sách cụ thể để giúp doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp các thị trường, cải thiện hệ thống hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu. Cuối cùng, cần tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và với các đối tác nước ngoài để hình thành chuỗi cung ứng bền vững.

GS.TS Hoàng Văn Cường cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Nhà nước đẩy mạnh các kế hoạch xúc tiến chiến lược, cung cấp thông tin thị trường chi tiết và hoàn thiện hệ thống hạ tầng để doanh nghiệp tận dụng tối đa các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã ký kết.

Cũng đưa ra quan điểm Hiệp định FTA đang trở thành giải pháp then chốt để doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm lối đi mới và đi sâu hơn vào thị trường cũ. TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, đã nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA.

Theo TS. Nguyễn Văn Hội, những FTA này không chỉ thúc đẩy thương mại truyền thống mà còn bao gồm các lĩnh vực "phi truyền thống" như môi trường, lao động và minh bạch hóa, đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn cho doanh nghiệp. Ông nhận định: “Các FTA là “đường cao tốc” đưa hàng hóa Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu. Chúng không chỉ giúp mở rộng quy mô, đa dạng hóa thị trường và giảm chi phí sản xuất, mà còn tạo áp lực tích cực để hệ thống chính sách, pháp luật trong nước trở nên minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài”, TS Hội nhận định.

Kể từ năm 1992, Việt Nam đã ký kết 17 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với nhiều đối tác lớn như EU, Trung Quốc, Nhật Bản và mới đây nhất là UAE. Các FTA này không chỉ tập trung vào việc cắt giảm thuế quan mà còn mở rộng sang nhiều lĩnh vực quan trọng như dệt may, quy tắc xuất xứ, lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ và thương mại điện tử. Điều này cho thấy cam kết hội nhập sâu rộng của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu.

TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam lại đưa ra quan điểm, cách thức tiếp cận mở rộng thị trường không nhất thiết phải theo số lượng mà cần hướng đến nâng cao chất lượng, hàm lượng giá trị xuất khẩu.

Điển hình, khu vực FDI đóng góp 100% giá trị xuất khẩu điện thoại nhưng lại nhập khẩu tới 89% linh kiện đầu vào. Tương tự, tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may chỉ đạt khoảng 45-50%, đồng nghĩa hơn một nửa nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao giá trị nội địa hóa để giảm phụ thuộc và tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.

“Bối cảnh mới chúng ta cần thay đổi tư duy, không phải tăng về kim ngạch xuất khẩu mà chất lượng, giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa của hàng xuất khẩu. Với tư duy này, thay vì đặt ra mục tiêu xuất khẩu gắn với những con số cụ thể mà căn cứ vào những tiêu chí khác như giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa… sẽ mang ý nghĩa định hướng lớn hơn rất nhiều cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”, TS Lê Duy Bình nhận định.

Đại diện hiệp hội ngành hàng, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho rằng, với ngành gỗ điều quan trọng lúc này là làm mới thị trường cũ đã mang lại nhiều cơ hội gia tăng giá trị xuất khẩu cho doanh nghiệp.

Ông nhận định, đây là cơ hội để các doanh nghiệp gỗ nhìn lại mình và tìm kiếm hướng tăng trưởng mới. Tuy nhiên, một doanh nghiệp đơn lẻ rất khó để thực hiện, mà cần phải liên kết thành một nhóm đủ mạnh. Theo ông, các nhóm doanh nghiệp gỗ đã nghiêm túc triển khai chủ trương này. Hiện tại, các doanh nghiệp gỗ đã tăng nhập khẩu gỗ từ Mỹ lên 600 triệu USD. Ngoài ra, ông cũng chỉ ra tiềm năng lớn tại thị trường Nhật Bản: dù hiện tại chủ yếu nhập dăm gỗ, Việt Nam hoàn toàn có thể gia tăng xuất khẩu các sản phẩm nội thất bằng gỗ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường này.

Về phía doanh nghiệp, đại diện cho ngành dệt may, ông Phí Ngọc Trịnh, Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm khẳng định, khi đối diện với những thách thức lớn, các doanh nghiệp trong ngành may mặc cần phải tích cực tìm kiếm và đầu tư vào các giải pháp thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Ông Trịnh cho rằng ngành dệt may Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào các thị trường truyền thống như Mỹ và EU. Để giảm thiểu rủi ro từ những thay đổi chính sách thương mại hay suy thoái kinh tế, ngành cần khẩn trương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên tích cực mở rộng sự hiện diện tại những nền kinh tế mới và tiềm năng như Nga, Brazil, Hàn Quốc, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ.

Giải pháp thứ hai là tập trung phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có để tăng sức cạnh tranh. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D), ứng dụng công nghệ tiên tiến và tăng cường hợp tác chuyên sâu nhằm bắt kịp, thậm chí dự đoán được các xu hướng thời trang quốc tế.

Có thể bạn quan tâm