Những bước đi tự do hoá đầy ấn tượng
Đưa qua quan điểm về những bước hội nhập của nước ta trong những năm qua, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng: Có thể nói mấy năm trở lại đây là giai đoạn rất đặc biệt của thương mại thế giới. Vẫn theo bà Trang, trong những năm qua, những nguyên tắc nền tảng của thương mại toàn cầu như tự do hóa, không phân biệt đối xử hay hành động đa phương dựa trên quy tắc thống nhất...đã bị thách thức nghiêm trọng bởi xu hướng bảo hộ nội địa, chủ nghĩa lợi ích cục bộ hay những biện pháp trừng phạt, trả đũa đơn phương ở nhiều khu vực trên thế giới.
Trong 2 năm 2020 và 2021, đại dịch COVID-19 lại làm xáo trộn thương mại – đầu tư thế giới theo một cách khác nữa, với phần lớn các nền kinh tế gặp tổn thất nặng nề. Dòng chảy thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Các vấn đề thương mại phải xếp sau những ưu tiên cấp bách hơn của hầu hết các chính phủ. Không ít những rào cản thương mại được dựng lên, có thể là cần thiết, cũng có thể là lạm dụng.
Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam vẫn nỗ lực để có kết quả khả quan so với nhiều đối tác khác trong những năm qua nhưng có lẽ bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào của Việt Nam cũng đều cảm nhận được sự mong manh và nguy cơ rủi ro ở các thị trường xuất khẩu.
Trong một bối cảnh đặc biệt phức tạp như vậy, Việt Nam và các đối tác vẫn quyết tâm thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại, hội nhập để cùng phát triển bền vững thông qua việc thúc đẩy đàm phán, ký kết 03 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đều có tiêu chuẩn cao và có quy mô lớn nhất từ trước tới nay.
Bà Thu Trang đánh giá cao nỗ lực, sự kiên định của Chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác trong những bước đi tự do hóa đầy ấn tượng đó. Bà Trang tin rằng đa số các doanh nghiệp cũng chia sẻ với bà về quan điểm này bởi quá trình này hứa hẹn mang lại cho doanh nghiệp những cơ hội mới để tiếp tục phát triển trong bối cảnh phức tạp.
Sự quan trọng của các FTA đối với nền kinh tế
Trong tổng thể, việc phê chuẩn và đưa vào thực thi CPTPP, EVFTA và gần đây nhất là ký kết RCEP mang lại động lực chonềnkinhtếViệtNamởcảgócđộ thể chế, cơ cấu kinh tế lẫn các cơ hội thương mại – đầu tư và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu xét một cách chi tiết thì mỗi FTA có một ý nghĩa nổi trội riêng với Việt Nam.
Với CPTPP, lợi ích kinh tế tăng thêm có thể không quá lớn, 7/10 đối tác CPTPP là các đối tác đã từng có FTA với Việt Nam, cơ hội chỉ đáng kể ở các thị trường mới như Canada, Mexico, Peru. Tuy nhiên những cam kết tiêu chuẩn cao, bao trùm những khía cạnh lần đầu tiên được đề cập lại có ý nghĩa về thể chế rất đáng kể với chúng ta. Ví dụ cam kết về quyền tự do liên kết của người lao động, về định hướng nâng cao các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, vềcácmứcđộbảohộcaocảvềcông nhận cũng như thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, về vấn đề minh bạch hóa và chống tham nhũng... đã và sẽ làm thay đổi không ít hiện trạng hệ thống pháp luật nội địa của chúng ta.
Với EVFTA, FTA đầu tiên giữa Việt Nam với cùng lúc 27 nền kinh tế của Liên minh châu Âu, cơ hội kinh tế là yếu tố được nhấn mạnh hơn cả. Không phải EVFTA không có các cam kết từ góc độ quy tắc và thể chế như CPTPP, thậm chí ở một vài khía cạnh còn được chú trọng hơn (ví dụ về phát triển bền vững). Tuy nhiên đa phần các cam kết này đã và đang được thực thi trong CPTPP, FTA đã có hiệu lực trước đó. Như vậy, lợi ích kinh tế khi thiết lập “con đường cao tốc” giữa Việt Nam với một thị trường có sức mua lớn thứ hai toàn cầu, có cơ cấu kinh tế bổ sung chứ không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam...có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt đối với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như nước ta.
VớiRCEP,FTAvớitoànbộđốitáctrongkhuvựcmàViệtNamđãtừngcó-ítthì1 FTA, nhiều thì 7 FTA, lợi ích nổi trội được nhắc tới lại xuất phát từ quy mô của Hiệp định này. Với phạm vi bao trùm các thị trường cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu của Việt Nam, RCEP mang lại cơ hội lớn hơn bao giờ hết cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong việc tận dụng các ưu đãi thuế quan do khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ nội khối dễ dàng hơn. Đồng thời, việc tất cả 15 đối tác cùng cam kết về các thủ tục thống nhất hơn, minh bạch và dễ dự đoán hơn, dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ nội khối dự báo sẽ thuận lợi hơn đáng kể. Cuối cùng, việc Hiệp định bao trùm và kết nối cùng lúc 14 đối tác, trong đó có các đối tác là nhân tố quan trọng của nhiều chuỗi giá trị toàn cầu, RCEP mang lại cho Việt Nam cơ hội tham gia sâu hơn vào nhiều chuỗi, từ đó nâng cao hiệu quả và giá trị thu được từ các chuỗi này.
Những tác động tích cực
Chia sẻ với Phóng viên, bà Thu Trang đưa ra quan điểm: Hệ thống chính sách pháp luật về kinh doanh của chúng ta đã có những thay đổi đáng kể dưới tác động của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Những thay đổi này không chỉ là về hình thức, số lượng văn bản hay phạm vi các chế định được điều chỉnh mà còn là những chuyển biến về chất mà chúng ta đều có thể cảm nhận được.
Tuy nhiên, theo bà Trang việc chuyển đổi thể chế từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất phức tạp, không phải cứ làm một lần, sửa một lần là hoàn tất. Có những điều chúng ta phải học dần dần, và làm vừa rút kinh nghiệm để điều chỉnh cho đến khi thích hợp. Hơn nữa, môi trường kinh doanh không đứng yên mà chuyển động không ngừng, đặc biệt dưới tác động của kinh tế số, công nghệ, thiên tai, dịch bệnh, các vấn đề về môi trường...Vì vậy, mặc dù đã có những chuyển biến rất đáng ghi nhận, theo đánh giá của các chuyên gia cũng như cộng đồng doanh nghiệp, hệ thống pháp luật kinh doanh hiện vẫn còn nhiều dư địa để cải cách.
Các FTA thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA với nhiều cam kết tiêu chuẩn cao về thể chế, quy tắc đòi hỏi pháp luật, chính sách Việt Nam trong những lĩnh vực liên quan phải tiếp tục được điều chỉnh. Ví dụ như pháp luật về lao động, về sở hữu trí tuệ, về bảo hộ đầu tư, hải quan và tạo thuận lợi thương mại,... sẽ phải điều chỉnh để tuân thủ các cam kết
Tuy nhiên, điều mà các chuyên gia kỳ vọng ở CPTPP hay EVFTA cho những thay đổi về chính sách pháp luật Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc sửa đổi một vài điểm cụ thể, ở một vài chế định theo yêu cầu cam kết.
Quan trọng hơn là kỳ vọng rằng, những lợi ích kinh tế đáng kể từ các FTA thế hệ mới này có thể tạo ra động lực mới để Việt Nam tiếp tục cải cách chủ động, vì chính mình, để hiện thực hóa tối đa cơ hội. Tiếp tục cải thiện hệ thống pháp luật kinh doanh phù hợp hơn với các nguyên tắc thị trường, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh công bằng, minh bạch ở bất kỳ khía cạnh nào có thể, cải cách thủ tục hành chính, chú trọng việc tham vấn và đối thoại chặt chẽ với các đối tượng chịu ảnh hưởng... là những mục tiêu ưu tiên quan trọng, bà Trang nói.