Tổng thuật: Hội nghị Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới

606791215582111995.jpg

Ngày 30/10, Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam - VACOD tổ chức Hội nghị “Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới” nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thúc đẩy kinh tế tư nhân, nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số.

Hội nghị được định vị là diễn đàn chiến lược quan trọng, nơi cộng đồng doanh nghiệp được kết nối, chia sẻ và nhận định hướng kịp thời từ các nhà hoạch định chính sách và chuyên gia. Trọng tâm của chương trình là tập trung tháo gỡ vướng mắc và hỗ trợ doanh nghiệp thực thi hiệu quả các chính sách mới, đặc biệt là những nội dung cốt lõi từ Bộ tứ Nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị (liên quan đến khoa học - công nghệ, hội nhập quốc tế, xây dựng pháp luật, và phát triển kinh tế tư nhân).

Tham dự sự kiện về phía lãnh đạo cơ quan Trung ương vinh dự đón tiếp PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Chính sách Chiến lược Trung Ương; PGS.TS Hồ Sỹ Hùng Bí thư Đảng ủy Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính; ông Nguyễn Đức Kiên, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn về Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia; ông Mai Xuân Hùng, nguyên Phó Chủ nhiệm, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; ông Bùi Anh Tuấn, Cục Trưởng Cục Phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính.

Ông Trần Anh Tuấn, Thành ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học công nghệ và Môi trường Hà Nội; PGS.TS Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ; ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn, Phó Cục Trưởng, Cục Quản lý và phát triển Thị trường trong nước, Bộ Công thương; bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục Trưởng, Cục Phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính; PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED).

Về phía lãnh đạo hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh, thành phố có sự tham dự của ông Nguyễn Quốc Khánh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Sơn La; ông Nguyễn Hữu Thập, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang; ông Nguyễn Văn Hùng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Phú Thọ; ông Đỗ Văn Vẻ, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên; ông Võ Thành Đàng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Quảng Ngãi; ông Trần Khắc Tâm, Phó Chủ tịch Hiệp hội phát triển hàng tiêu dùng Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố Cần Thơ; ông Hồ Chí Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Đồng Tháp; bà Ninh Thị Ty, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố Hà Nội; bà Nguyễn Thị Thanh Tâm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố Hà Nội; ông Đinh Văn Hồng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình; bà Nguyễn Thị Minh Hiền, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Lào Cai; đoàn Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa do ông Đới Sỹ Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký làm Trưởng đoàn và các ông,bà trong Ban lãnh đạo Hiệp hội; bà Nguyễn Thị Bích Huệ, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Lâm Đồng.

Về phía lãnh đạo Hiệp hội Phát triển hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD có sự hiện diện của TS. Nguyễn Hồng Sơn, nguyên Phó chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hà Nội (HBA); bà Nguyễn Thị Thu Thủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD; các Phó Chủ tịch Hiệp hội Phát triển hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD gồm ông Nguyễn Văn Khôi; ông Hoàng Bá Thịnh; bà Nguyễn Thị Tuyết Minh; ông Nguyễn Minh Quang.

Và sự góp mặt đông đủ của các ông bà Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban chấp hành và hơn 300 doanh nghiệp Hội viên Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD.

DOANH NGHIỆP VỮNG TÂM TRƯỚC VẬN HỘI MỚI

Tại Hội nghị “Doanh nghiệp việt trước vận hội mới” TS. Nguyễn Hồng Sơn nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI; Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD; Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố Hà Nội – HBA có bài phát biểu khai mạc.

Chủ tịch Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện diễn ra trong không khí kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh. Ông khẳng định vai trò cầu nối của VACOD trong việc xúc tiến thương mại, hỗ trợ pháp lý, và nâng cao năng lực cho doanh nghiệp trên cả nước thông qua các chương trình giao lưu thường niên.

Chủ tịch VACOD chỉ ra rằng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động và thách thức (như xung đột địa chính trị và thay đổi chính sách thương mại), các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải thích ứng để gia tăng sức cạnh tranh và tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đáng chú ý, ông nhấn mạnh hai điểm đột phá lớn: Cuộc cải cách thể chế toàn diện (thay đổi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp) nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch hơn, và sự ra đời của Bộ tứ Nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị.

adf2ea961e25937bca34.jpg
TS. Nguyễn Hồng Sơn nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI; Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam – VACOD; Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố Hà Nội – HBA

Các nghị quyết đã và đang tác động trực tiếp đến môi trường kinh doanh, thể chế chính sách pháp luật trong các hoạt động sản xuất kinh doanh; tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước cho các Doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tiếp cận các nguồn lực về đất đai về tài chính và các nguồn lực khác của đất nước.

Kể từ khi các nghị quyết được ban hành, Hiệp hội đã nhanh chóng cập nhật và liên tục tổ chức các hội nghị, tọa đàm thông qua chương trình “Bữa sáng Doanh nhân” vào sáng thứ 7 hàng tuần, mời các chuyên gia, làm việc với các tổ chức khoa học công nghệ của các bộ, ban, ngành nhằm phổ biến, định hướng, triển khai các nội dung của “bộ tứ trụ cột” và các văn bản pháp luật liên quan tới doanh nghiệp.

Các Nghị quyết này (về khoa học - công nghệ, hội nhập quốc tế, xây dựng pháp luật, và phát triển kinh tế tư nhân) được xem là động lực to lớn, tăng cường hỗ trợ của Nhà nước cho khối kinh tế tư nhân.

“Trên tinh thần đó, VACOD tổ chức hội nghị này nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc và áp dụng hiệu quả các chủ trương, chính sách mới. Điểm nhấn của chương trình là phần thảo luận đối thoại trực tiếp hai chiều giữa các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp có tính ứng dụng cao”, Chủ tịch Sơn nhấn mạnh.

Kết thúc bài phát biểu, TS. Nguyễn Hồng Sơn khẳng định chìa khóa để doanh nghiệp Việt Nam cất cánh trong kỷ nguyên mới nằm ở bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng và tinh thần đổi mới sáng tạo của đội ngũ doanh nhân, đồng thời cam kết VACOD sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ hội viên nắm bắt mọi cơ hội.

CHỦ ĐỘNG TRIỂN KHAI 3 CHIẾN LƯỢC

Tại hội nghị, PGS.TS Hồ Sỹ Hùng - Bí thư Đảng ủy Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính đã gửi gắm thông điệp mạnh mẽ về vai trò dẫn dắt của VCCI, cùng với ba nội dung then chốt mà cộng đồng doanh nghiệp cần tập trung triển khai để vượt qua thách thức, nắm bắt vận hội.

Ông Hồ Sỹ Hùng nhấn mạnh việc tổ chức hội nghị chuyên đề này là "rất kịp thời và có ý nghĩa", đặc biệt khi cộng đồng doanh nghiệp đang đứng trước "ngã ba đường" của sự lựa chọn chiến lược. Đây là thời điểm doanh nghiệp phải tự đặt ra câu hỏi về phương thức phát triển, đối diện với nhiều thách thức, đồng thời phải nhanh chóng điều chỉnh và sửa đổi ngay lập tức các chiến lược kinh doanh.

Trên tinh thần đó, ông Hùng đánh giá cao sự chủ động của Hiệp hội Doanh nghiệp Phát triển hàng tiêu dùng VACOD trong việc tổ chức diễn đàn, tạo ra một sự lan tỏa tích cực trong việc kết nối, hợp tác và chia sẻ tri thức. Sự kiện này là một tín hiệu cho thấy cộng đồng doanh nghiệp đã sẵn sàng cho những đổi mới lớn.

screen-shot-2025-10-30-at-164003.png
PGS.TS Hồ Sỹ Hùng, Bí thư Đảng ủy Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính

Với tư cách là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, ông Hồ Sỹ Hùng khẳng định VCCI luôn xác định rõ sứ mệnh của mình ở một tầm cao hơn, vượt lên trên nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Sứ mệnh của VCCI là dẫn dắt, hỗ trợ tiến trình đổi mới và phát triển bền vững của cộng đồng doanh nghiệp.

“VCCI mong muốn xây dựng một mái nhà chung cho tất cả các tổ chức hội, hiệp hội, hướng tới mục tiêu tạo ra một cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vững mạnh, có tầm nhìn và khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Việc này đòi hỏi sự đoàn kết và phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức đại diện”, ông Hùng nhấn mạnh.

Bí thư Đảng ủy VCCI đã kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và Hiệp hội VACOD trong việc triển khai ba nội dung chiến lược.

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế là một "giải pháp chiến lược" cốt lõi để tạo ra cơ hội phát triển lớn hơn cho doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh cần phải chọn hướng đi mới. VCCI đã tham gia tích cực vào quá trình này, tiêu biểu là trong việc góp ý sửa đổi các văn bản pháp luật, trong đó có Luật Đầu tư. Mục tiêu là nhằm làm rõ quyền lợi đầu tư của doanh nghiệp đối với các dự án đã có chủ trương, quy hoạch, giúp cắt giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian từ ý tưởng đầu tư đến thực tế triển khai.

Đặc biệt, ông ghi nhận vai trò của Bộ Chỉ số Năng lực Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) mà VCCI đã duy trì suốt 20 năm, như một công cụ hiệu quả để cải thiện môi trường kinh doanh ở các địa phương, tăng cường sự kết nối và minh bạch giữa doanh nghiệp và chính quyền.

Thứ hai, tập trung vào phát triển năng lực cho doanh nghiệp, với trọng tâm là thị trường lao động, đào tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh trong kỷ nguyên số. VCCI đã tổ chức hàng trăm khóa đào tạo, huấn luyện mỗi năm cho hàng chục nghìn lượt doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, việc xúc tiến thương mại, đầu tư được đẩy mạnh thông qua việc tổ chức các đoàn ra, đón đoàn vào và các hội nghị kêu gọi đầu tư. Ông nhấn mạnh việc mở rộng sang các thị trường mới như khu vực Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ, Romania... là một vận hội mới mà doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích cực tìm hiểu và khai thác.

Thứ ba, ông Hồ Sỹ Hùng nhấn mạnh rằng trong thời đại mới, những yêu cầu như chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và đổi mới sáng tạo không còn là lựa chọn mà là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp Việt có thể cạnh tranh được, kể cả với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Ông kêu gọi doanh nghiệp phải thực hiện các chuẩn mực này một cách thực chất, không hình thức, để nâng tầm quy mô và tạo ra sự lan tỏa mạnh mẽ hơn bởi "không có một doanh nghiệp nào có thể đi một mình" trên con đường phát triển đầy chông gai phía trước.

PHẦN THAM LUẬN

4e17ed547be7f6b9aff6.jpg
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương

Mở đầu phần tham luận, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương đi sâu phân tích bối cảnh chung của thế giới và trong nước và chỉ ra những bước tiến mang tính đột phá trong tư duy lãnh đạo, đặc biệt là qua việc triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, qua đó khẳng định tầm vóc mới của kinh tế tư nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn nêu bật 3 điểm mới trong đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân gồm: Kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Vai trò của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân được chuyển trọng tâm từ kiểm soát, quản lý sang phục vụ, kiến tạo; Các định hướng mới được tổ chức thực hiện nhanh chóng, quyết liệt với sự vào cuộc của tất cả các bên có liên quan.

Điểm mới thứ nhất và quan trọng nhất trong đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân là sự nâng tầm vị thế của khu vực kinh tế tư nhân, từ chỗ là một "thành phần kinh tế" đơn thuần đến việc xác định là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế" trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Theo PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, với vị thế mới này, khu vực kinh tế tư nhân được giao những nhiệm vụ cốt lõi, mang tính quyết định đến tương lai phát triển đất nước: Tiên phong trong tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, đồng thời là chủ thể trung tâm trong việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.

Khu vực kinh tế tư nhân là nòng cốt, cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đóng vai trò nòng cốt để xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng vẫn gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trên tinh thần đó, đặt ra những yêu cầu và định hướng chiến lược, mang tính đột phá cho khu vực kinh tế tư nhân: Cần xoá bỏ triệt để mọi định kiến đối với kinh tế tư nhân; khuyến khích mạnh mẽ khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và làm giàu hợp pháp, coi doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể của quá trình phát triển;

Bên cạnh đó, Nhà nước phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản và quyền bình đẳng (được kinh doanh những gì pháp luật không cấm; bình đẳng về cơ hội và tiếp cận nguồn lực). Mục tiêu là tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định, an toàn, chi phí thấp, và tiệm cận chuẩn quốc tế;

Ưu tiên đầu tư nghiên cứu phát triển (R&D), ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; khuyến khích tư nhân tham gia vào các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược quốc gia để vươn tầm khu vực và thế giới.

Điểm mới thứ hai, Phó Trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chỉ ra nền tảng thể chế cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, chính là sự chuyển dịch căn bản trong vai trò của Nhà nước. Nhà nước không còn là cơ quan quản lý và kiểm soát đơn thuần mà trở thành một Nhà nước phục vụ, kiến tạo phát triển, lấy sự thành công của doanh nghiệp làm thước đo hiệu quả quản lý.

Để hiện thực hóa những mục tiêu chiến lược, yêu cầu căn bản là phải hoàn thiện thể chế, pháp luật và cải cách thủ tục hành chính một cách triệt để: Cần xoá bỏ triệt để cơ chế "xin – cho" và tư duy "không quản được thì cấm". Pháp luật phải đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định, dễ tuân thủ và chi phí thấp;

Việc chuyển đổi từ nền hành chính công vụ nặng về quản lý sang phục vụ và kiến tạo phát triển, và từ tiền kiểm sang hậu kiểm là ưu tiên hàng đầu. Mục tiêu cụ thể là trong năm 2025, phải cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, và ít nhất 30% điều kiện kinh doanh.

Cùng với việc kiến tạo môi trường, Nhà nước cam kết bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân. Đồng thời, tuân thủ nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự; giữa pháp nhân và cá nhân trong xử lý vi phạm.

Sự chuyển dịch này là minh chứng rõ ràng nhất cho quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng, đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực chính, vững mạnh, có trách nhiệm trong quá trình phát triển quốc gia.

Điểm mới thứ ba, mang tính quyết định về mặt thực thi, chính là tốc độ và sự đồng bộ trong việc đưa các định hướng chiến lược mới vào cuộc sống. Sự thành công của một đường lối không chỉ nằm ở tính đúng đắn của nội dung mà còn ở tính kịp thời và quyết liệt trong triển khai. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và tính kiến tạo của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân.

Sự quyết liệt được thể hiện qua tốc độ ban hành các văn bản pháp luật và kế hoạch hành động. Ngay sau khi Nghị quyết chiến lược về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành ngày 4/5/2025, quá trình thể chế hóa đã diễn ra gần như ngay lập tức.

Cùng với đó, việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW vào ngày 19/6/2025 đã chứng minh sự cam kết chính trị ở cấp cao nhất. Cơ chế này đảm bảo mọi vướng mắc trong quá trình thực hiện sẽ được xử lý kịp thời, không bị tắc nghẽn ở các cấp trung gian.

screen-shot-2025-10-30-at-164756.png
Bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính

Tiếp theo, bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính chia sẻ: Nhìn lại 40 năm đổi mới, những con số thống kê về khu vực kinh tế tư nhân đã khẳng định vị thế quan trọng không thể thay thế của khu vực này đối với nền kinh tế, như việc đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động.

Mặc dù vậy, khu vực kinh tế này vẫn chưa thực sự được cởi trói để phát triển mạnh mẽ như kỳ vọng. Đa số hình ảnh về khu vực này là quy mô nhỏ và siêu nhỏ; tiềm lực tài chính, trình độ quản trị hạn chế; năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động chưa cao; phần lớn tư duy còn manh mún, ngắn hạn, thiếu tầm nhìn và chưa thực sự có tính kết nối, tham gia vào các chuỗi giá trị.

Trước bối cảnh đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Nghị quyết được ban hành với nhiều điểm mới, đột phá, được cộng đồng doanh nghiệp hồ hởi đón nhận, được đánh giá là trúng và đúng, đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới.

Ngay sau khi Nghị quyết số 68 được Bộ Chính trị ban hành, với tinh thần quyết liệt, khẩn trương, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ báo cáo Quốc hội thông qua Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân ngay tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV.

Đồng thời, Bộ Tài chính đã khẩn trương xây dựng 2 Kế hoạch triển khai 2 Nghị quyết (Nghị quyết số 68-NQ/TW và số 198/2025/QH15), báo cáo Chính phủ thông qua tại Nghị quyết 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025. Có thể nói, chỉ trong hơn 60 ngày, 4 Nghị quyết đã được Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đồng loạt ban hành để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.

Nghị quyết số 138/NQ-CP và Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ đã giao 69 nhiệm vụ, trong đó hơn 62% (43 nhiệm vụ) hoàn thành trong năm 2025, Đến nay, cơ bản các cơ quan trung ương và địa phương đã hoàn thành 29/43 nhiệm vụ của năm 2025 (đạt hơn 67%), các nhiệm vụ còn lại của năm 2025 các bộ, ngành, địa phương đang khẩn trương thực hiện và dự kiến hoàn thành theo đúng tiến độ.

Tại Quốc hội, hàng loạt luật mới được thông qua và sửa đổi nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho kinh tế tư nhân như: Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Dữ liệu… Các bộ, ngành cũng đồng loạt xây dựng nghị định hướng dẫn về hỗ trợ lãi suất, quỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tuần hoàn, đào tạo nhân lực và phát triển doanh nghiệp tiêu biểu.

Thời gian qua tinh thần của Nghị quyết 68 nhanh chóng lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội. Hàng triệu cán bộ, đảng viên, doanh nhân tham gia các hội nghị, diễn đàn, tọa đàm trên toàn quốc. Các cơ quan truyền thông, hiệp hội và tổ chức xã hội tích cực vào cuộc, biến nghị quyết thành hành động cụ thể.

Chỉ sau vài tháng thực thi, các kết quả tích cực đã xuất hiện rõ nét. Mỗi tháng trung bình 18.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng gần 50% so với đầu năm. 10 tháng đầu năm 2025, hơn 261.000 doanh nghiệp gia nhập và quay trở lại thị trường, tổng vốn đăng ký bổ sung hơn 5,1 triệu tỷ đồng. Tính đến tháng 10/2025, Việt Nam đã có trên 1 triệu doanh nghiệp hoạt động.

Thu ngân sách từ khu vực tư nhân đạt 338 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 121,2% so với cùng kỳ. Riêng thu từ hộ, cá nhân kinh doanh 9 tháng đầu năm 2025 ước đạt 25.275 tỷ đồng (Hà Nội ước đạt 4.579 tỷ đồng, TP.HCM ước đạt 7.219 tỷ đồng).

Có thể nói rằng, Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng với chuỗi nghị quyết chiến lược: từ khoa học – công nghệ, hội nhập, giáo dục đến phát triển năng lượng và kinh tế tư nhân. Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, cơ hội và thách thức đan xen, tinh thần nghị quyết 68 đã khơi dậy bản lĩnh và khát vọng vươn lên của doanh nhân Việt Nam, những người sẵn sàng đổi mới, sáng tạo, phụng sự đất nước.

Với sự đồng hành của Nhà nước, quyết tâm của doanh nghiệp và sự ủng hộ của toàn xã hội, khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục khẳng định vai trò chủ lực trong nền kinh tế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

c1e69bcb8d7900275968.jpg
PGS.TS. Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ

Theo PGS.TS. Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh rằng, thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển mới, được định hình sâu sắc bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Cuộc cách mạng này đang làm thay đổi căn bản các mô hình sản xuất, kinh doanh và quản trị trên quy mô toàn cầu, với sự trỗi dậy của các công nghệ lõi như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain), công nghệ sinh học và vật liệu mới.

Trong bối cảnh đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã vượt qua vai trò là một lĩnh vực riêng lẻ để trở thành động lực chính, quyết định năng lực cạnh tranh, tốc độ phát triển và vị thế của mỗi quốc gia.

Việt Nam được ghi nhận là một trong số ít quốc gia trên thế giới (dưới 5%) tiên phong trong việc kết nối chặt chẽ bộ ba yếu tố khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tuy nhiên, cách tiếp cận này mới là mục tiêu, phải cần có hành động. Do đó cần bộ ba mới là nhà khoa học công nghệ, nhà doanh nghiệp, nhà nước thì mới thúc đẩy phát triển và tạo ra các giá trị thực tiễn cho kinh tế - xã hội và góp phần tăng GDP.

Theo mô hình Triple Helix, ba chủ thể này tương tác chặt chẽ, tạo thành một chuỗi năng động, là nền tảng để thúc đẩy một nền kinh tế dựa trên tri thức.

Viện/trường và doanh nghiệp là mối quan hệ cốt lõi, nơi diễn ra các hoạt động chuyển giao tri thức, công nghệ, nghiên cứu và phát triển (R&D) theo hợp đồng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo nhu cầu của doanh nghiệp và thực tế của thị trường.

Trong mối quan hệ với viện/trường, nhà nước đóng vai trò tài trợ cho các nghiên cứu cơ bản mang tính nền tảng, định hướng các chiến lược R&D quốc gia và xây dựng các chính sách phát triển giáo dục đại học. Nhà nước đầu tư cho viện trường và doanh nghiệp thực hiện sản xuất thử nghiệm, cũng như đầu tư mạo hiểm cho hình thành các start-up hay các công ty spin-off

Trong mối quan hệ với doanh nghiệp, nhà nước kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ và đồng thời có thể đóng vai trò là khách hàng lớn, đặt hàng các sản phẩm công nghệ mang tính chiến lược.

Thế nhưng, mối liên kết ba nhà đang đối mặt với một mâu thuẫn lớn và những điểm nghẽn mang tính hệ thống cần được tháo gỡ khẩn cấp. Theo đó, mối liên kết giữa khối nghiên cứu (các viện, trường đại học) và khối ứng dụng (doanh nghiệp) vẫn còn rất yếu. Hoạt động đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành cầu nối hiệu quả để đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống, tạo ra các sản phẩm thương mại hóa có giá trị gia tăng cao.

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, thể chế pháp lý và các cơ chế, chính sách hiện hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển năng động của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, còn tồn tại nhiều rào cản. Song song đó, hạ tầng nền tảng, đặc biệt là hạ tầng số như mạng 5G, trung tâm dữ liệu lớn, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, còn nhiều hạn chế so với yêu cầu.

Một trong những nghịch lý lớn nhất là nguồn nhân lực R&D của Việt Nam đang tập trung chủ yếu ở khu vực nhà nước (chiếm 84,1%). Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nơi có nhu cầu ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo cao nhất để tạo ra sản phẩm cạnh tranh, lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn (lần lượt là 13,8% và 2,1%).

Do đó, đề xuất một mô hình hợp tác ba nhà mới không chỉ là một đề tài mang tính học thuật, mà đã trở thành một yêu cầu cấp bách, mang tính sống còn để giải quyết điểm nghẽn mang tính hệ thống, khai thông các nguồn lực và hiện thực hóa khát vọng phát triển của quốc gia.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự ra đời của một loạt văn bản chính sách mang tính đột phá, tạo thành một nền tảng pháp lý và chính trị vững chắc, một thời cơ chín muồi để triển khai mô hình hợp tác ba nhà một cách toàn diện và thực chất.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm thành công của các quốc gia đi đầu về đổi mới sáng tạo trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Singapore cũng cung cấp những bài học quý giá, giúp Việt Nam có thể "may đo" và xây dựng một mô hình phù hợp với bối cảnh trong nước.

Để hiện thực hóa định hướng phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia dựa trên mô hình hợp tác giữa nhà khoa học công nghệ, nhà doanh nghiệp và nhà nước, cần xác định rõ các mục tiêu.

Về mục tiêu tổng quát, xây dựng được các luận cứ khoa học và thực tiễn vững chắc để đề xuất các mô hình hợp tác ba nhà khả thi, hiệu quả, cùng một bộ cơ chế chính sách vận hành đồng bộ để triển khai tại Việt Nam.

Mục tiêu cuối cùng là nhằm giải phóng các nguồn lực, thúc đẩy phát triển sản phẩm ứng dụng, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, và hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược đã đề ra trong Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW. Đồng thời, xây dựng một khung cơ chế, chính sách vận hành đồng bộ và mang tính đột phá cho các mô hình được đề xuất, tập trung giải quyết ba "điểm nghẽn" cốt lõi đã được xác định gồm tài chính, sở hữu trí tuệ và quản trị.

5da88eef435dce03974c.jpg
Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED)

Tại bài phát biểu tham luận của mình, ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) cho hay, lý giải vì sao việc xây dựng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ là nhu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp hiện nay.

Theo Giám đốc Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia, trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước áp lực cạnh tranh công nghệ ngày càng lớn. Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, mô hình kinh doanh và nhu cầu thị trường buộc doanh nghiệp phải không ngừng thích ứng và đổi mới. Việc xây dựng là công cụ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong cuộc đua này.

Ông Chiến cho rằng, đổi mới sáng tạo chính là chìa khóa của tăng trưởng và biên lợi nhuận bền vững. Đồng thời, quỹ nội bộ còn mang đến cho doanh nghiệp sự chủ động trong đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D), cũng như trong việc mua hoặc nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến.

Không chỉ dừng lại ở đó, Quỹ còn được xem là một công cụ tài chính đặc thù – linh hoạt, chủ động và mang tầm nhìn dài hạn. Đáng chú ý, doanh nghiệp có quỹ riêng còn mở rộng cơ hội hợp tác và nhận đồng tài trợ từ các chương trình hỗ trợ quốc gia như NAFOSTED hay NATIF.

Cuối cùng, việc xây dựng Quỹ còn giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong đầu tư công nghệ nhờ cơ chế chia sẻ nguồn lực với Nhà nước.

Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp được phép sử dụng Quỹ cho nhiều hoạt động thiết thực, gắn liền với đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh. Quỹ có thể chi cho nghiên cứu – phát triển sản phẩm; mua hoặc nhận chuyển giao công nghệ, phần mềm, dữ liệu.

Doanh nghiệp cũng được dùng quỹ để kiểm định, thử nghiệm, xây dựng tiêu chuẩn, chứng nhận quốc tế. Ngoài ra, quỹ hỗ trợ đào tạo nhân lực R&D, thuê chuyên gia trong và ngoài nước.

Đặc biệt, doanh nghiệp còn được phép đầu tư liên doanh, liên kết hoặc góp vốn vào các startup công nghệ, với mức tối đa 5% thu nhập, góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và lan tỏa tri thức công nghệ trong nền kinh tế.

Theo quy định hiện hành, việc thành lập Quỹ Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp được thực hiện theo hướng đơn giản, tự chủ và linh hoạt hơn.

Việc thành lập Quỹ còn giúp tăng năng lực cạnh tranh, tự chủ công nghệ, đồng thời giảm chi phí dài hạn, nâng cao biên lợi nhuận nhờ chủ động đầu tư và cải tiến.

Doanh nghiệp có nguồn lực tài chính riêng, không phụ thuộc tín dụng, thuận lợi trong đạt chuẩn quốc tế, ISO, chứng nhận chất lượng, và dễ dàng thu hút nhân tài R&D, chuyên gia giỏi. Ngoài ra, quỹ còn tăng giá trị doanh nghiệp thông qua sở hữu trí tuệ, công nghệ cốt lõi, đồng thời tạo “lá chắn rủi ro” khi đồng tài trợ cùng các quỹ quốc gia.

Trong quá trình xây dựng và vận hành Quỹ, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp không ít khó khăn. Phổ biến nhất là quy chế nội bộ chưa rõ ràng, dẫn đến lúng túng trong quản lý và sử dụng quỹ. Nhiều doanh nghiệp ngại rủi ro khi đầu tư vào công nghệ mới, do lo ngại hiệu quả chưa thấy ngay hoặc thiếu cơ chế đánh giá phù hợp.

Bên cạnh đó, không ít doanh nghiệp thiếu đối tác nghiên cứu, chuyên gia giỏi để triển khai các dự án R&D, cũng như chưa biết cách phối hợp với cơ quan nhà nước trong đặt hàng hoặc đồng tài trợ nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Ở góc độ quản trị, bộ phận kế toán – tài chính còn e ngại thủ tục, sợ quyết toán phức tạp, trong khi nhiều lãnh đạo doanh nghiệp vẫn chú trọng mục tiêu ngắn hạn, chưa dành nguồn lực cho chiến lược R&D dài hạn và phát triển công nghệ bền vững.

Về giải pháp, trước hết, doanh nghiệp cần ban hành Quy chế Quỹ nội bộ khoảng 10–12 trang. Tiếp đó, nên thành lập Hội đồng khoa học tư vấn gồm 3–5 chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo để hỗ trợ thẩm định, đánh giá và định hướng dự án. Cùng với đó, cần xây dựng danh mục dự án công nghệ trong 1–3 năm, làm cơ sở cho việc phân bổ nguồn lực và theo dõi hiệu quả đầu tư.

Doanh nghiệp cũng nên tăng cường hợp tác với viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp khác, nhằm tận dụng chuyên môn, cơ sở vật chất và nhân lực nghiên cứu. Cuối cùng, việc lưu trữ chứng từ, hồ sơ chi minh bạch không chỉ giúp quản lý quỹ chặt chẽ mà còn bảo vệ doanh nghiệp khi phát sinh rủi ro trong quá trình đổi mới công nghệ.

Cuối cùng, theo ông Đào Ngọc Chiến, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia là công cụ chiến lược giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng thời pháp lý đã đầy đủ và cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển công nghệ mà không bỏ lỡ cơ hội quý giá.

Việc đầu tư vào công nghệ hôm nay chính là tạo sức cạnh tranh cho ngày mai, bởi doanh nghiệp mạnh về công nghệ sẽ góp phần làm quốc gia mạnh về khoa học và công nghệ, nâng tầm vị thế của đất nước trên bản đồ công nghệ toàn cầu.

PHẦN THẢO LUẬN

Ông Nguyễn Hữu Thập, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang: Chúng tôi ghi nhận tính cấp thiết của việc ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo vào sản xuất kinh doanh. Nghị quyết 57 cũng đã có những thể chế rất rõ ràng.

Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc do việc giải quyết thủ tục hành chính cấp xã sau sáp nhập còn yếu kém, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Xin hỏi Bộ, ngành có giải pháp gì để khẩn trương ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) vào giải quyết thủ tục hành chính, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý (văn bản quy phạm pháp luật) để đảm bảo việc đào tạo và triển khai thực tế đến từng cán bộ cấp xã, qua đó gỡ khó hiệu quả cho cộng đồng doanh nghiệp?

Ông Nguyễn Đức Kiên, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn về Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia: Về vấn đề ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), Hội đồng tư vấn của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập trong báo cáo đầu tháng 10/2025, sau 3 tháng thực hiện mô hình chính quyền 2 cấp, có thể áp dụng công nghệ số vào các công việc thường kỳ, thường xuyên của chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, việc này chúng ta đang thiếu hành lang pháp lý để thực hiện.

Hiện nay, chúng ta yêu cầu công chức, viên chức soạn thảo văn bản để trả lời cho người dân, nhưng nếu dùng AI thì phải có quy định. Vì ứng dụng AI phải có tính pháp lý, văn bản do AI soạn ra cần được công nhận.

Về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã giao Phó Thủ tướng Phạm Thị Thanh Trà giải quyết, mong các đại biểu trong kỳ họp tới kiến nghị thêm, ứng dụng công nghệ số trong chính quyền 2 cấp.

PGS.TS. Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ: Khoảng hai ngày trước, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có buổi làm việc với các Bộ trưởng trong khối ASEAN về chuyển đổi số. Tại cuộc họp, các Bộ trưởng thống nhất yêu cầu các nước đề xuất sáng kiến nhằm thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong khu vực. Trong đó, Việt Nam được giao nghiên cứu xây dựng bộ AI thí điểm trước khi nhân rộng ra toàn khối ASEAN.

Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ sẽ đề xuất cơ cấu cho việc thành lập nhóm điều phối nhằm kêu gọi doanh nghiệp cùng phối hợp triển khai thí điểm “Trợ thủ AI” phục vụ công tác hành chính. Mô hình này dự kiến ứng dụng AI hỗ trợ 38 vị trí việc làm tại cấp xã, phường, liên quan tới 7 - 8 quy trình nghiệp vụ chính, tương đương hơn 500 quy trình chi tiết. Thực tế, nếu không có sự hỗ trợ của AI, khối lượng công việc hiện nay khiến cán bộ cấp cơ sở khó có thể đáp ứng hiệu quả.

Bộ Khoa học và Công nghệ cũng nhấn mạnh, việc kết hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư rằng dịch vụ công nào doanh nghiệp có thể làm được thì để doanh nghiệp làm. Theo đó, nhà nước sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp triển khai thí điểm trên ba mô hình: phường đô thị, xã tại khu vực tỉnh và đặc khu.

Ngoài ra, Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ dự kiến phối hợp với các tổ chức quốc tế thuộc mạng lưới DCO (Digital Cooperation Organization) có kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyển đổi số và AI, nhằm chia sẻ nguồn lực, kỹ thuật và kinh nghiệm triển khai thực tế.

Ông Vũ Gia Luyện, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Thông tin Quốc tế, Hà Nội, Ủy viên thường vụ VACOD: Doanh nghiệp chúng tôi đã xây dựng hệ thống AI và đang triển khai thử nghiệm tại TP.HCM và Hải Phòng. Chúng tôi mong muốn được trao đổi, hợp tác để mở rộng việc ứng dụng công nghệ này.

Bên cạnh đó, công ty cũng phát triển một sản phẩm công nghệ giúp hiển thị thông tin định danh của khách hàng khi liên lạc, nhằm ngăn chặn tình trạng mạo danh và lừa đảo trong giao dịch điện tử. Vì vậy, chúng tôi cũng rất tha thiết được đóng góp thêm ý kiến để hoàn thiện khung giải pháp, phục vụ tốt hơn cho công tác chuyển đổi số an toàn.

Ông Nguyễn Đức Kiên: Tôi đề xuất PGS.TS. Vũ Văn Tích nên phối hợp với Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Thông tin Quốc tế trong việc khai thác dữ liệu và nghiên cứu ứng dụng hệ thống AI nói trên.

Chúng ta biết rằng, khi doanh nghiệp triển khai công nghệ mới, cần chú trọng hơn đến các quy định pháp luật về an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Do vậy, Viện Chiến lược cần nghiên cứu thêm các quy định của Công ước Hà Nội về an ninh mạng. Từ đó kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và khung pháp lý để đảm bảo việc ứng dụng công nghệ phù hợp với quy chuẩn quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Bà Phạm Thị Thu Hằng, chuyên gia kinh tế, nguyên Tổng thư ký VCCI: Thứ nhất về chính sách. Tại khu vực kinh tế tư nhân, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp khi đầu tư tại các vùng khó khăn chính là vấn đề cơ chế, chính sách. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ khá tốt cho khu vực này, song trên thực tế, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận các chính sách đó.

Trong các chính sách hiện hành, tôi nghĩ cần có thêm những quy định và hướng dẫn cụ thể hơn về đầu tư, đặc biệt là cơ chế hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển vùng khó khăn, để tạo điều kiện thực chất cho doanh nghiệp.

Thứ hai, về đổi mới công nghệ. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách mới khuyến khích đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, một trong những khó khăn lớn nhất là thiếu cơ sở vật chất và hạ tầng phục vụ thử nghiệm sản xuất. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học cần có không gian và thiết bị để thử nghiệm, song để sản phẩm có thể thương mại hóa với giá thành hợp lý, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ sở vật chất và địa điểm thử nghiệm.

Ông Nguyễn Đức Kiên: Hiện nay, việc hỗ trợ đầu tư cho khu vực vùng sâu vùng xa thì Đảng và Nhà nước đã có chính sách pháp luật, hỗ trợ rõ ràng được thể chế trong các Nghị quyết.

Trên tinh thần đó, doanh nghiệp hoặc các cá nhân có thể kết hợp với Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) của ông Đào Ngọc Chiến thành lập phòng nghiên cứu trồng các loại nông sản đặc trưng như hạt macca từ đó có thể triển khai những sản phẩm sáng chế từ nguồn nguyên liệu nông sản truyền thống.

Ông Hồ Chí Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Đồng Tháp: Thời gian qua, Trung ương và Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết thông thoáng, cởi mở nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân, tạo ra nhiều cơ hội lớn cho phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cách thức quản lý trong mô hình chính quyền hai cấp hiện nay vẫn còn nhiều bất cập.

Thực tế cho thấy, các tập đoàn lớn có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận chính sách và cơ chế hỗ trợ. Trong khi đó, đa số doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thường xuyên làm việc trực tiếp với chính quyền cấp xã, phường, nơi đang gặp không ít khó khăn và độ trễ trong thực thi.

Hiện nay, nhiều cán bộ lãnh đạo xã, phường được điều chuyển từ cấp huyện hoặc các sở, ngành xuống. Họ có trình độ, nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong xử lý các vụ việc cụ thể, dẫn đến lúng túng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, trong thời gian ngắn, có quá nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành, khiến doanh nghiệp và hiệp hội bị “bội thực” thông tin, không kịp tiếp nhận, nghiên cứu. Nhiều văn bản dự thảo được gửi lấy ý kiến hôm trước, hôm sau đã yêu cầu phản hồi, rất khó để doanh nghiệp kịp góp ý chất lượng.

Nếu tình trạng này kéo dài, doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đã chịu ảnh hưởng nặng nề sau dịch bệnh và khủng hoảng kinh tế sẽ khó có thể trụ vững. Đây là thực tế đang diễn ra ở nhiều địa phương, cần được các cơ quan chức năng quan tâm, tháo gỡ kịp thời.

Hiện nay, việc xử lý thủ tục hành chính qua các ứng dụng điện tử cũng thường xuyên gặp tình trạng tắc nghẽn, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Tôi kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước, bộ ngành cần tăng cường đi thực tế, nắm bắt tình hình để kịp thời có biện pháp khắc phục.

Ông Nguyễn Đức Kiên: Với bối cảnh hiện nay, khi công việc còn gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như việc cần hoàn thiện văn bản góp ý gấp trong ngày, hoàn toàn có thể sử dụng các công cụ AI như ChatGPT để hỗ trợ. Tôi tin tưởng rằng, trong quá trình hoàn thiện mô hình chính quyền hai cấp chúng ta sẽ có hướng đi.

Sau thời gian trao đổi sôi nổi, các khách mời tỏ ra khá hài lòng với những gợi ý mà ông Kiên đưa ra. Đồng thời, cộng đồng doanh nghiệp tại hội nghị cũng tin tưởng, với việc Đảng và Nhà nước nỗ lực thúc đẩy kinh tế tư nhân, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước vận hội mới.

Một số hình ảnh tại phần thảo luận của hội nghị:

03f93449a8fb25a57cea.jpg
Ông Nguyễn Hữu Thập, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang
495304926263990503.jpg
PGS.TS. Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ
2879327133004833735.jpg
Ông Vũ Gia Luyện, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Giải pháp Công nghệ Thông tin Quốc tế, Hà Nội, Ủy viên thường vụ VACOD
a66aa15713e59ebbc7f4.jpg
Bà Phạm Thị Thu Hằng, chuyên gia kinh tế, nguyên Tổng thư ký VCCI
6ff35ac3f471792f2060.jpg
Ông Hồ Chí Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Đồng Tháp
2536527559594707309.jpg
Ông Nguyễn Đức Kiên, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội; nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn về Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
395362195721941027.jpg
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó trưởng ban Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương ghi lại những kiến nghị từ phía doanh nghiệp
ea664a5bf8e975b72cf8.jpg
Các khách mời chăm chú lắng nghe thảo luận

Xem thêm

Sắp diễn ra Giao lưu doanh nhân ba miền Bắc - Trung - Nam 2025 và Hội nghị “Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới”

Sắp diễn ra Giao lưu doanh nhân ba miền Bắc - Trung - Nam 2025 và Hội nghị “Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới”

Chủ trì chương trình Bữa sáng Doanh nhân ngày 18/10, Chủ tịch VACOD-HBA, TS Nguyễn Hồng Sơn điểm lại chuỗi sự kiện quan trọng nửa đầu tháng 10 và chính thức thông báo kế hoạch tổ chức sự kiện thường niên của VACOD vào cuối tháng 10, cùng loạt hoạt động đối ngoại sôi động những tháng cuối năm 2025…

Hội thảo Việt – Nga tại Bệnh viện Hữu Nghị thúc đẩy hợp tác y tế

Hội thảo Việt – Nga tại Bệnh viện Hữu Nghị thúc đẩy hợp tác y tế

Qua sự kết nối của Chủ tịch HBA-VACOD, TS Nguyễn Hồng Sơn và Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Saint Petersburg - Ngài Viacheslav Gennadievich Kalganov, Bệnh viện Hữu Nghị đã tổ chức Hội thảo khoa học Việt – Nga, với sự tham dự của nhiều chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp hai nước…

HBA-VACOD tổ chức thành công Hội nghị hợp tác kinh doanh Việt – Nga

HBA-VACOD tổ chức thành công Hội nghị hợp tác kinh doanh Việt – Nga

Dưới sự chủ trì của Chủ tịch HBA-VACOD, TS Nguyễn Hồng Sơn, Hội nghị hợp tác kinh doanh Việt – Nga diễn ra thành công, trở thành diễn đàn quan trọng để các doanh nghiệp hai nước gặp gỡ, trao đổi thông tin, tìm kiếm cơ hội hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, dịch vụ…

Có thể bạn quan tâm