Việt Nam từ lâu được ca ngợi là một điển hình về sự phát triển khi chuyển dịch từ nền kinh tế dựa vào nông nghiệp để trở thành ngôi sao đang lên trong chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu.
Tuy nhiên, khi 90% xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực bởi suy thoái thương mại trong năm nay, 10% xuất khẩu nông sản còn lại đã bất ngờ vươn lên bất chấp nghịch cảnh.
ĐIỂM SÁNG DUY NHẤT TRONG XUẤT KHẨU
Theo đánh giá của HSBC, đối với một quốc gia điển hình như Việt Nam, năm 2023 rõ ràng là một năm đầy thử thách cho động lực tăng trưởng thương mại trọng yếu. Mặc dù chu kỳ thương mại toàn cầu đã có dấu hiệu phục hồi sơ khởi, xuất khẩu của Việt Nam vẫn bị suy giảm 7% tính từ đầu năm 2023 tới nay, một cản trở đáng kể đối với tăng trưởng.
Trong bối cảnh nhu cầu hàng hóa từ các nước phương Tây sụt giảm, các mặt hàng chủ đạo của Việt Nam xuất đi, từ điện tử tiêu dùng và may mặc/da giày đến đồ nội thất gỗ và máy móc, đều rơi vào tình trạng ảm đạm. Trong bối cảnh đó, xuất khẩu nông sản vươn lên như điểm sáng duy nhất bất chấp bối cảnh sụt giảm thương mại.
Mặc dù lĩnh vực cơ bản chỉ chiếm khoảng 10% tổng GDP nhưng vai trò của lĩnh vực này không thể xem nhẹ. Xét cho cùng, một phần ba lao động của Việt Nam vẫn tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ này đã giảm so với mức đỉnh là 40% cách đây một thập kỷ do có thêm lao động trẻ chuyển sang lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.
"Không giống như những lĩnh vực khác ghi nhận mức sụt giảm hai con số, xuất khẩu nông nghiệp đã vững vàng đi qua giông bão, tăng gần 20% so với cùng kỳ năm trước tính trên cơ sở bình quân 3 tháng", chuyên gia của HSBC đánh giá.
Với nguồn tài nguyên dồi dào, Việt Nam tận hưởng một nền tảng nông nghiệp đa dạng. Thủy sản chiếm gần 40% trong cơ cấu xuất khẩu nông nghiệp, sau đó là tới cà phê Robusta (14%), gạo (12%) và trái cây/rau củ (11%).
Tuy nhiên, cơ cấu không phải lúc nào cũng cố định như vậy: Việt Nam có chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu không chỉ tập trung vào gạo, thị phần mặt hàng này đã chững lại trong vòng một thập kỷ qua.
Thay vào đó, Việt Nam đã chủ động canh tác trái cây và rau củ để xuất khẩu. Trong số các điểm đến, châu Á chiếm chủ yếu, trong đó Trung Quốc (25%) và ASEAN (18%), hai thị trường này cộng lại chiếm hơn 40% tổng xuất khẩu nông sản của Việt Nam, sau đó là tới các nước phương Tây với 27% thị phần.
Nói chung, nhu cầu từ Trung Quốc không đủ để bù đắp cho sự suy yếu trong xuất khẩu của ASEAN, mặc dù đúng là gia tăng nhu cầu của Trung Quốc đã mạnh lên. Trong trường hợp của Việt Nam, xuất khẩu sang Trung Quốc đã trở lại mức tăng trưởng khá kể từ quý 2/2023, một nửa tăng trưởng đến từ kết quả vượt trội của xuất khẩu nông sản (Biểu đồ 5). Nguyên nhân chính cũng nhờ triển khai RCEP từ tháng 1/2022.
Trong khi Trung Quốc là một quốc gia nhập khẩu quan trọng đối với mặt hàng gạo và thủy sản của Việt Nam, quốc gia này chiếm tỷ trọng chính lên đến 65% thị phần trái cây/rau củ của Việt Nam, điều này lý giải vì sao thị phần đã tăng gấp ba lần trong thập kỷ qua.
May mắn, sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại, xuất khẩu trái cây nhiệt đới của Việt Nam đã tăng đáng kể, một phần để hưởng ứng nghị định thư ký kết giữa hai nước trong năm 2022.
Hiện nay, 80% thanh long và 90% vải thiều của Việt Nam được xuất khẩu sang nước láng giềng phía Bắc. Đặc biệt, niềm yêu thích mới của người tiêu dùng Trung Quốc dành cho sầu riêng đã mang lại lợi ích đáng kể cho hoạt động xuất khẩu sầu riêng ở ASEAN.
Việt Nam đã đạt mức xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc cao kỷ lục (tăng 1.400% so với cùng kỳ năm trước) tính đến quý 3/2023, kết quả này đảm bảo cho sầu riêng vị trí hàng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu trái cây của Việt Nam với tỷ trọng lên đến gần 40%.
Không chỉ xuất khẩu trái cây đang bùng nổ. Là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Ấn Độ (40%) và Thái Lan (15%), Việt Nam (13%) đã được hưởng lợi đáng kể từ cuộc chạy đua giá gạo gần đây trên thị trường gạo toàn cầu. Kể từ tháng 7, giá xuất khẩu tiêu chuẩn của gạo Thái Lan đã tăng 40% so với cùng kỳ năm trước lên mức cao nhất trong vòng 15 năm, một phần do lệnh cấm xuất khẩu của Ấn Độ đối với một số sản phẩm gạo và gián đoạn thời tiết.
Kể từ đó, những diễn biến này dẫn đến xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt mức tăng trưởng ấn tượng 50% so với cùng kỳ năm trước.
Song song, Việt Nam đã chủ động giảm sự phụ thuộc vào xuất khẩu gạo cũng như đa dạng hóa thị trường tiêu thụ. Theo chiến lược xuất khẩu gạo mới công bố gần đây, Việt Nam đặt mục tiêu cắt giảm xuất khẩu gạo xuống chỉ còn 4 triệu tấn mỗi năm vào năm 2030, bằng một nửa so với mức ước tính của năm nay, với lý do cần “thúc đẩy gạo chất lượng cao, đảm bảo an ninh lương thực trong nước và thích ứng với biến đổi khí hậu”. Động thái này ẩn chứa nhiều thông điệp đối với các đối tác thương mại, đặc biệt là các nước ASEAN.
Hiện tại, ba nước ASEAN nằm trong top sáu nước mua nhiều gạo của Việt Nam nhất, riêng Philippines đã chiếm tới 45%, sau đó là tới Malaysia và Singapore. Xuất khẩu gạo của Việt Nam là nguồn cung không thể thiếu cho các quốc gia này, với tỷ trọng tương ứng là 80%, 34% và 23% trong danh mục nhập khẩu gạo của họ. Chính quyền Việt Nam đã đảm bảo với các đối tác ASEAN rằng họ cam kết đảm bảo nguồn cung gạo ổn định, nhưng chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu của Việt Nam lại là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Nhìn chung, HSBC đánh giá, trong một năm đầy thách thức như năm 2023, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã vươn lên bất chấp nghịch cảnh. Mặc dù tỷ trọng dưới 10% trong tổng danh mục xuất khẩu không bù đắp được hết cho tất cả những trở ngại thương mại nhưng xuất khẩu nông sản chắc chắn giúp làm dịu bớt tình hình.
"Trong thời gian tới, điều quan trọng là Việt Nam phải tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) và tập trung đưa sản phẩm xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao hơn nữa tiềm năng thị trường", chuyên gia của HSBC đưa ra khuyến nghị.
ĐÃ QUA GIAI ĐOẠN ĐÁY
Sau tháng trước có dấu hiệu phục hồi, xuất khẩu Việt Nam tháng 10 tiếp tục lấy lại đà tăng trưởng, tăng gần 6% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù mỗi sản phẩm một khác, nhưng các dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang phục hồi ổn định khỏi suy thoái thương mại toàn cầu.
Nhờ hiệu ứng cơ sở thuận lợi trong hai tháng cuối năm, tăng trưởng xuất khẩu nhiều khả năng sẽ tăng tốc. Đây là tín hiệu cho sự phục hồi được mong đợi từ lâu trong lĩnh vực thương mại, được kỳ vọng sẽ nâng mức tăng trưởng năm 2024 lên 6-6,5% theo nhận định của chính phủ (HSBC: 6,3%).
Mặc dù xuất khẩu điện thoại vẫn là một cản trở nhưng xuất khẩu máy tính và linh kiện điện tử dư sức bù đắp cho sự suy yếu đó. Đặc biệt, nhập khẩu hàng linh kiện điện tử đã đạt mức tăng trưởng hai con số trong ba tháng liên tiếp, cho thấy sự phục hồi cơ bản trong chu kỳ xuất khẩu điện tử. Xuất khẩu máy móc cũng tăng vọt do liên quan chặt chẽ đến chu kỳ điện tử.
Tuy nhiên, dệt may và da giày vẫn còn yên ắng, dẫn đến tình trạng sa thải liên tục trong lĩnh vực này do thiếu đơn đặt hàng nghiêm trọng từ các nước phương Tây. Ví dụ, Công ty cổ phần Garmex Sài Gòn, một doanh nghiệp dệt may lớn của Việt Nam, chỉ giữ lại chưa đến 2% lực lượng lao động tính đến quý 3/2023 sau khi sa thải gần 2.000 công nhân.
Điều đáng mừng là sự phục hồi của Việt Nam không chỉ giới hạn ở lĩnh vực bên ngoài. Sau khi tiêu dùng nội địa cải thiện đôi chút trong quý 3/2023, doanh số bán lẻ tiếp tục phục hồi, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, doanh số bán lẻ vẫn thấp hơn một chút so với xu hướng tăng trưởng và nhu cầu đối với hàng tiêu dùng như ô tô tiếp tục sụt giảm ở mức hai con số, mặc dù mức giảm thấp hơn nhiều.
Ngoài ra, lạm phát cũng khởi đầu quý 4 với một số tin vui. Đà lạm phát chỉ tăng nhẹ, lên 0,1% so với tháng trước, tương đương với mức lạm phát so với cùng kỳ năm trước là 3,6%, dưới mức dự báo của thị trường (Bloomberg: 4,0%; và HSBC: 3,9%; trước đó: 3,7%).
Nguyên nhân phần lớn là do giá lương thực giảm và giá dầu giảm. Tuy nhiên, khi nói đến thực phẩm thì cần thận trọng. Trong khi xuất khẩu của Việt Nam được hưởng lợi nhờ giá gạo tăng, giá gạo thế giới cao hơn cũng khiến giá gạo trong nước tăng. Tin tốt là giá thịt lợn giảm đã bù đắp cho mức tăng của giá gạo, giúp làm chậm lạm phát lương thực nói chung.
Mặc dù vẫn có rủi ro tăng, lạm phát nhìn chung vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Cùng với việc dự báo lạm phát sẽ tăng lên 4,0% trong quý 4/2023 (từ 2,9% trong quý 3/2023), tuy nhiên, HSBC kỳ vọng lạm phát sẽ vẫn ở dưới mức trần 4,5%.
"Chúng tôi dự báo lạm phát sẽ ở mức khoảng 3,3% vào năm 2024, cũng thấp hơn nhiều so với mức trần lạm phát 4-4,5% của Ngân hàng Nhà nước", HSBC nêu quan điểm.
Mặc dù các nước trong khu vực như Indonesia và Philippines, có động thái rục rịch tăng lãi suất, HSBC không kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có động thái tương tự vì lạm phát dường như không phải là mối quan ngại cấp bách và giữ nguyên dự báo lãi suất chính sách ở mức 4,5% cho năm 2023.