Chính vì vậy nên từ năm 2020 đến nay hoạt động sản xuất bia gặp nhiều khó khăn, khiến doanh thu của toàn ngành giảm kéo theo việc thu ngân sách của ngành này bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
SẢN LƯỢNG GIẢM
Ngành sản xuất bia ở Việt Nam chỉ phát triển từ năm 1991, khi nhà nước có chính sách mở cửa nền kinh tế. Các nhà máy bia Sài Gòn, Hà Nội được đầu tư, đồng thời nhiều hãng bia lớn trên thế giới đã thâm nhập vào Việt Nam như bia Heineken, Carlsberg... giúp cung cấp đủ sản lượng tiêu dùng trong nước và đẩy lùi được vấn nạn bia nhập lậu từ nước ngoài.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, từ năm 2015 đến nay, sản xuất và cung ứng bia trên thị trường Việt Nam có thể được chia ra 2 giai đoạn, từ 2015-2019 và từ 2020 đến nay.
Trong giai đoạn 2015-2019, sản xuất bia tăng với tốc độ khá nhanh, từ 3,5 tỷ lít năm 2015 và đạt đỉnh cao 4,59 tỷ lít vào năm 2019. Mức tăng sản lượng bình quân năm giai đoạn này đạt 7,1%.
Hiện nay, các doanh nghiệp có xu hướng sản xuất những sản phẩm có nồng độ cồn thấp, sản phẩm bia không cồn, nước trái cây lên men... đồng thời tăng cường đầu tư nghiên cứu và cho ra thị trường các sản phẩm mới, mẫu mã đa dạng, phong phú, đáp ứng thị hiếu và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2020, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và tác động của việc thực thi Nghị định 100/2019/NĐ-CP, hoạt động sản xuất bia gặp nhiều khó khăn và đã giảm tới 14,75% so với năm 2019. Đà giảm mạnh tiếp tục "lăn" qua năm 2021 trước khi có sự hồi phục tới 2 chữ số vào năm 2022 do được nâng đỡ bởi điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi và đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát trên phạm vi toàn cầu.
Sau đó, sản xuất bia Việt Nam đạt đỉnh cao vào quý 3/2022, nhưng lại bắt đầu suy giảm trở lại từ quý 4/2022 cho tới cuối năm 2023.
Theo Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA), ngành bia chịu nhiều ảnh hưởng từ quy định xử phạt nồng độ cồn và kinh tế khó khăn, trong 8 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành đồ uống chỉ tăng 0,5%, trong khi ngành thực phẩm tăng mạnh tới 7,3%. Sản lượng ngành bia giảm gần 4% so với cùng kỳ năm 2023.
DOANH THU THỤT LÙI
Theo số liệu từ nguồn Statista Market Insights, doanh thu của ngành bia Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2014 - 2019 nhờ sự tăng nhanh nhu cầu tiêu thụ. Doanh thu toàn ngành đã tăng đều qua các năm, từ 5,63 tỷ USD năm 2014 lên 7,6 tỷ USD vào năm 2019 với mức tăng trưởng bình quân 6,2%/năm.
Tuy vậy trong 2 năm 2020 và 2021, doanh thu toàn ngành đã giảm, năm 2020 chỉ còn 5,71 tỷ USD và tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất vào năm 2021 với chỉ 4,64 tỷ USD.
Trong giai đoạn 2021-2023, lợi nhuận bình quân toàn ngành liên tục giảm. Năm 2021 giảm 12%, năm 2022 giảm 6%, năm 2023 giảm 10% so với năm 2022. Thu ngân sách toàn ngành giảm bình quân 10%/năm trong giai đoạn này.
Trong nhiều năm qua, thị trường bia Việt Nam được thống trị bởi nhóm 4 doanh nghiệp lớn, đó là Công ty TNHH nhà máy bia Heineken Việt Nam, Sabeco, Công ty TNHH bia Carlsberg Việt Nam và Habeco - chiếm tới 94,4% thị phần ngành bia Việt Nam năm 2021. Trong đó riêng Heineken chiếm 44,4%; Sabeco chiếm 33,9%; Carlsberg chiếm 8,7% và Habeco chiếm 7,4% thị phần.
Năm 2022, trong số 4 doanh nghiệp lớn chiếm thị phần lớn nhất của ngành thì 2 doanh nghiệp trong nước đạt kết quả kinh doanh khá tốt khi Sabeco ghi nhận doanh thu gần 35.000 tỷ đồng (tăng 33% so với năm 2021) và Habeco có doanh thu thuần đạt 8.398 tỷ đồng (tăng 21% so với năm 2021).
Tuy nhiên, giai đoạn đầu năm 2023 lại chứng kiến sự sụt giảm về doanh thu của 2 doanh nghiệp trên, khi doanh thu thuần quý I/2023 của Sabeco chỉ đạt 6.213 tỷ đồng (giảm 15% so với cùng kỳ năm 2022) và Habeco cũng gặp phải tình trạng suy giảm kết quả kinh doanh khi doanh thu chỉ đạt 1.172 tỷ đồng (giảm 14% so với cùng kỳ năm 2022).
Lý giải về sự sụt giảm doanh thu giai đoạn đầu năm 2023 của 2 doanh nghiệp này, bên cạnh những vấn đề đặc thù và khó khăn trong cạnh tranh giành thị phần, kết quả kinh doanh của Sabeco và Habeco có điểm chung là cùng chịu tác động từ chính sách kiểm soát chặt chẽ vi phạm về nồng độ cồn theo Nghị định 100.
Ngoài ra, thói quen chi tiêu của người Việt Nam có xu hướng giảm dần trước những khó khăn hiện tại của nền kinh tế cũng là một nguyên nhân tác động đến sự sụt giảm về kết quả kinh doanh này.
Theo số liệu, doanh thu của ngành bia năm 2024 tăng trên 2 con số, trong khoảng 10 - 12%. Nhưng đây là mức tăng so với mức rất thấp của năm 2023, còn nếu so với trước dịch Covid-19 thì vẫn đang bị suy giảm. Năm 2024, hàng tồn kho ngành đồ uống tiếp tục tăng, riêng 6 tháng đầu năm 2024 tăng 29% so với cùng kỳ năm 2023. Các doanh nghiệp lớn trong ngành đều bị giảm doanh thu, lợi nhuận...
GIẢM THU NGÂN SÁCH
Việc sụt giảm doanh thu của ngành bia khiến thu ngân sách nhà nước cũng bị ảnh hưởng, tác động đến lực lượng lao động và các ngành phụ trợ như cung cấp nguyên vật liệu và logistics.
Thực tế, hàng năm, ngành đồ uống đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước với sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp lớn như Công ty TNHH nhà máy bia Heineken Việt Nam (xếp thứ 14 trong danh sách 1.000 doanh nghiệp nộp thuế lớn nhất năm 2021), Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Tổng công ty bia, rượu, nước giải khát Hà Nội (Habeco), Công ty TNHH bia Carlsberg Việt Nam, Sapporo Breweries...
Các nhà máy sản xuất, kinh doanh đồ uống có mặt ở 51 tỉnh, thành và đóng góp một phần cho ngân sách của các địa phương. Ngành sản xuất bia đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước, phục vụ cho xuất khẩu, sản phẩm có sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, ngành đồ uống nói chung và sản xuất bia nói riêng còn tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong chuỗi cung ứng từ bao bì, đóng gói, vận chuyển, bảo quản, bán buôn, bán lẻ, đến các nhà cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất.
Quy mô ngành đồ uống khoảng 27 tỷ USD doanh thu, trong đó đồ uống không cồn đạt doanh thu 10,22 tỷ USD chiếm 38%, đồ uống có cồn gần 17 tỷ USD, chiếm 62%. Ngành này đã đóng góp ngân sách nhà nước của ngành khoảng 60 nghìn tỷ đồng/năm (riêng thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm trên 40 nghìn tỷ đồng/năm), trong đó ngành bia chiếm 75%.
Hiện tại, với tâm lý người tiêu dùng chuộng đồ nhập khẩu hơn hàng nội địa, ngày càng có nhiều doanh nghiệp bước chân vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu bia.
Không những thế, các doanh nghiệp ngoại, các hãng bia lớn trên thế giới đã áp dụng đề án marketing hiệu quả và mang tính toàn cầu để tăng thị phần, đồng thời từng bước mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư xây dựng nhà máy tại Việt Nam. Điều này khiến doanh nghiệp bia nội địa khó lại thêm khó.
Trước tình hình trên, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp bia trong nước nếu không có những đề án, chiến lược marketing bài bản, đầu tư trang thiết bị, công nghệ, đổi mới về mẫu mã, bao bì và chất lượng sản phẩm, tập trung làm tốt việc xây dựng thương hiệu và hệ thống phân phối ngay từ đầu, định vị đúng phân khúc khách hàng, việc thu hẹp thị phần của các hãng bia nội là khó tránh khỏi, khó có thể cạnh tranh sòng phẳng về giá cả và chất lượng với bia ngoại và mất dần ưu thế ngay trên sân nhà.