Các giải pháp được bà Trang chia sẻ tại “Diễn đàn Phát triển nông nghiệp Việt Nam – Thu hút doanh nghiệp đầu tư cho nông nghiệp bền vững” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chủ trì phối hợp với UBND tỉnh Long An, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam tổ chức mới đây.
Theo bà Trang, trong tiến trình hội nhập kinh tế mạnh mẽ, Việt Nam đã tham gia hàng loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới như: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
“Những cam kết sâu rộng về tự do thương mại đã tạo động lực mạnh mẽ cho xuất khẩu nông sản Việt Nam, duy trì tăng trưởng ngay cả trong bối cảnh COVID 19 tác động nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặc dù vậy, theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, tỷ trọng và giá trị xuất khẩu nông sản từ Việt Nam sang các nước thành viên các FTA còn chưa tương xứng với tiềm năng thị trường cũng như các lợi thế mà Việt Nam có được trong sản xuất nông nghiệp” – Bà Trang nhận định.
Đại diện Oxfam tại Việt Nam lấy ví dụ, với việc xuất khẩu mặt hàng rau quả vào các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam có khả năng canh tác quanh năm với đa dạng các chủng loại rau củ, hoa quả; kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng tốt cả về lượng và giá trị sau EVFTA. “Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa chiếm đến 1% dung lượng thị trường lớn nhất thế giới này”- Bà Trang khẳng định.
Ghi nhận từ các dự án phát triển nông nghiệp do Oxfam và các đối tác phối hợp triển khai trong thời gian qua, bà Trang đã đưa ra một số giải pháp nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản Việt Nam, tận dụng các lợi thế có được từ FTA. Thứ nhất, quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận. Các FTA đem lại nhiều ưu đãi về thuế quan, nhưng rào cản kỹ thuật với nông sản tại một số thị trường lớn như EU, Anh Quốc, Mỹ, Nhật Bản,… vẫn rất khắt khe, đặc biệt là các quy định về kiểm dịch, an toàn thực phẩm, ghi nhãn bao bì. Việc quản lý chất lượng một cách nhất quán, chuẩn hóa theo các bộ tiêu chuẩn được quốc tế công nhận không chỉ giúp nông sản Việt đáp ứng các yêu cầu bắt buộc của quốc gia nhập khẩu, mà còn là phương tiện để chinh phục khách hàng tại các thị trường này.
“Trong khuôn khổ dự án SFV, chúng tôi đang đồng hành cùng các doanh nghiệp trong việc áp dụng tiêu chuẩn BRC – một trong các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm được công nhận rộng rãi nhất toàn cầu. Một số doanh nghiệp cho biết khách hàng quốc tế, đặc biệt từ thị trường EU, sẽ sẵn sàng tiến hành giao dịch thương mại ngay khi doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này” – Bà Trang cho biết.
Thứ hai, tăng cường áp dụng các thực hành sản xuất bền vững và kinh doanh có trách nhiệm trong nông nghiệp: các thị trường nhập khẩu lớn như châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cách thức doanh nghiệp ứng xử với môi trường, với người lao động, với nhà cung cấp quy mô nhỏ và các bên liên quan khác trong quá trình tạo ra sản phẩm. Việc áp dụng các thực hành sản xuất bền vững, kinh doanh có trách nhiệm một mặt giúp gia tăng giá trị sản phẩm và cơ hội xuất khẩu nông sản, mặt khác giúp định hình các chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững, giảm thiểu tác động đến môi trường, chia sẻ lợi ích hài hòa giữa các bên, đặc biệt là đảm bảo lợi ích cho các nhà sản xuất quy mô nhỏ ở vị trí đầu chuỗi.
“Một số thực hành bền vững mà chúng tôi đã và đang góp sức cùng các nhà sản xuất nông nghiệp như: chứng chỉ MSC, ASC cho thủy sản; chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC cho các sản phẩm mây tre; chứng chỉ thương mại công bằng FairTrade cho các sản phẩm gia vị,… đều là các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận rộng rãi và đem lại tác động tích cực cho người nông dân, các doanh nghiệp sản xuất ngay khi đạt chứng chỉ”.
Thứ ba, tăng cường quản lý sản xuất theo mô hình chuỗi. Việc duy trì mối liên kết chặt chẽ giữa các mắt xích trong chuỗi giá trị nông nghiệp đang dần trở thành hướng đi tất yếu cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Để sản phẩm đầu ra đủ chất lượng, đúng tiêu chuẩn, mang lại giá trị kinh tế cao, các hướng dẫn kỹ thuật cần được chia sẻ và thực hành một cách nhất quán xuyên suốt các khâu trong chuỗi giá trị, từ nuôi trồng đến chế biến cho tới hoàn thiện thành phẩm. Và ở chiều ngược lại, lợi ích kinh tế cũng cần được chia sẻ một cách công bằng cho các bên tham gia chuỗi thông qua các thỏa thuận hợp tác, hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp (nông hộ, HTX) thay vì các giao dịch thương mại mang tính chất thời vụ. Mô hình quản lý theo chuỗi giá trị cũng là điều kiện “cần” cho việc đảm bảo thông tin về sản phẩm nông nghiệp là minh bạch và truy xuất được – một yêu cầu bắt buộc từ hầu hết các thị trường mục tiêu đã có FTA với Việt Nam, đặc biệt là khu vực Châu Âu.
Theo bà Trang, năng lực và quyết tâm của doanh nghiệp, của nhà sản xuất trong từng chuỗi giá trị nông sản chính là yếu tố tiên quyết để thực hiện các giải pháp trên. Bên cạnh đó, sẽ vẫn cần có các hỗ trợ mang tính hệ thống từ cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan trong hệ sinh thái sản xuất nông nghiệp để: lấp đầy khoảng trống về thông tin, bao gồm thông tin về các FTA, về yêu cầu nhập khẩu và xu hướng tiêu dùng tại các thị trường mục tiêu đối với các sản phẩm nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh, thông tin kỹ thuật về các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, sản xuất bền vững được thị trường quốc tế chấp nhận rộng rãi; định hình và thúc đẩy kênh phân phối quốc tế cho nông sản Việt Nam; quảng bá thương hiệu quốc gia và các chỉ dẫn địa lý nông sản Việt Nam tại các thị trường trọng điểm.
“Với những nỗ lực tổng hòa như trên, chúng tôi tin tưởng nông nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng tốt nhất các lợi thế có được từ FTA, hiện thực hóa các cơ hội xuất khẩu để đưa nông sản giá trị cao đến với thế giới, từ đó đem lại lợi ích bền vững cho doanh nghiệp, cho người nông dân và các bên liên quan trong chuỗi giá trị nông nghiệp” – Bà Trang khẳng định.