Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Anh Tuấn vừa ký văn bản yêu cầu Cục Hàng không Việt Nam rà soát đối với giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không, giấy phép kinh doanh hàng không chung của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, Bộ cũng yêu cầu đề xuất phương án xử lý đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không (nếu có) không còn đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, báo cáo bằng văn bản về Bộ Giao thông vận tải trước ngày 8/3/2023.
Theo thống kê của Cục Hàng không, Việt Nam hiện có 6 hãng hàng không đang khai thác gồm Vietnam Airlines, Pacific Airlines, Vietjet Air, Bamboo Airways, Vasco, Vietravel Airlines cùng các hãng hàng không chung như Hải Âu, Hành Tinh Xanh, Ngôi Sao Việt, Bầu Trời Xanh, Sun Air, Bay Việt… Các hãng hàng không đang khai thác 249 máy bay.
Theo quy định hiện hành, để kinh doanh vận tải hàng không doanh nghiệp phải có giấy phép kinh doanh vận tải hàng không, giấy phép kinh doanh hàng không chung. Ngoài ra, phải đáp ứng các điều kiện về phương án bảo đảm có tàu bay khai thác, tổ chức bộ máy, vốn, phương án kinh doanh và chiến lược phát triển sản phẩm quy định theo quy định của pháp luật.
Trong đó, số lượng máy bay duy trì trong suốt quá trình kinh doanh vận tải hàng không tối thiểu là 3 tàu bay đối với kinh doanh vận chuyển hàng không, tối thiểu là 1 tàu bay đối với kinh doanh hàng không chung.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải đáp ứng mức vốn tối thiểu (bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay) để thành lập và duy trì doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển hàng không.
Cụ thể, doanh nghiệp khai thác đến 10 máy bay, vốn điều lệ tương ứng 300 tỷ đồng; khai thác từ 11 đến 30 máy bay, vốn điều lệ tương ứng 600 tỷ đồng; khai thác trên 30 máy bay, vốn điều lệ tương ứng 700 tỷ đồng. Mức vốn tối thiểu để thành lập và duy trì doanh nghiệp kinh doanh hàng không chung là 100 tỷ đồng Việt Nam.
Doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không có vốn đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện như nhà đầu tư nước ngoài chiếm không quá 34% vốn điều lệ, phải có ít nhất một cá nhân Việt Nam hoặc một pháp nhân Việt Nam giữ phần vốn điều lệ lớn nhất.
Trường hợp pháp nhân Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài góp vốn thì phần vốn góp nước ngoài chiếm không quá 49% vốn điều lệ của pháp nhân.