Công ty Chứng khoán MB (MBS Research) vừa công bố báo cáo triển vọng ngành ngân hàng với chủ đề: “Chất lượng tài sản tốt hơn, định giá cao hơn”.
Theo dữ liệu từ báo cáo, tính đến 13/2/2025, tăng trưởng tín dụng đạt 15,6 nghìn tỷ (giảm 0,08% từ đầu năm và giảm 0,88% so với cùng kỳ). Cụ thể, dư nợ bằng VND giảm 0,21% từ đầu năm, trong khi dư nợ ngoại tệ tăng 3,22% từ đầu năm. Điều này chỉ ra sự phục hồi mạnh mẽ trong nhu cầu tín dụng, tạo nền tảng thuận lợi để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng tín dụng 16% của Ngân hàng Nhà nước cho năm 2025.

Theo đó, MBS Research dự báo tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng sẽ đạt 17-18% trong năm 2025 nhờ vào sự phục hồi mạnh mẽ của ngành sản xuất và tiêu dùng tại Việt Nam. Cuộc chiến thương mại lần 2 có thể một lần nữa mang lại cơ hội cho các quốc gia thuộc nhóm “Trung Quốc +” như Ấn Độ, Đông Nam Á... Việc tiêu dùng chưa phục hồi hoàn toàn trong năm 2024, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng chậm của doanh số bán lẻ chỉ đạt 9,3% so với cùng kỳ, cho thấy dư địa tăng trưởng tiêu dùng đáng kể trong năm 2025.
MBS Research kỳ vọng tín dụng bán lẻ sẽ đóng góp tỷ trọng lớn hơn vào tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng nhờ nhu cầu gia tăng và mức nền thấp trong năm trước.
Cùng với đó, tỷ lệ giải ngân đầu tư công duy trì ở mức cao: chi tiêu công năm 2024 đạt 86,4% kế hoạch năm, tăng 5,7% so với cùng kỳ. Kịch bản tăng trưởng GDP đạt 8% vào năm 2025 sẽ thúc đẩy Chính phủ đẩy nhanh tốc độ giải ngân, với tỷ lệ hoàn thành kế hoạch dự báo đạt khoảng 90% trong năm 2025. Điều này kỳ vọng sẽ củng cố tăng trưởng tín dụng doanh nghiệp và cải thiện sức mua của khu vực dân cư năm 2025.

Những ngân hàng có các điều kiện sau được kỳ vọng có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn năm 2025:
Thứ nhất, tỷ lệ sử dụng hạn mức tín dụng cao trong năm 2024. Các ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức tín dụng cao trong năm 2024 sẽ có lợi thế cạnh tranh trong việc đảm bảo hạn mức tín dụng cho năm 2025.
Thứ hai, tăng trưởng chi phí dự phòng và cải thiện chất lượng tài sản. Việc gia tăng chi phí dự phòng trong năm 2024, kết hợp với việc cải thiện chất lượng tài sản, sẽ giảm bớt áp lực từ việc gia tăng nợ xấu trong năm 2025 khi tăng trưởng tín dụng ngân hàng bán lẻ phục hồi.
Thứ ba, sự phục hồi mạnh mẽ của NIM trong năm 2024 sẽ giúp các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, tạo ra lợi thế quan trọng trong việc mở rộng tín dụng vào năm 2025.
Một điểm đáng lưu ý khác, chất lượng tài sản được dự báo sẽ tiếp tục cải thiện trong năm 2025. Tỷ lệ nợ nhóm 2 giảm trong năm 2024 giúp giảm áp lực gia tăng nợ xấu (NPL) trong năm 2025.
Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng dự báo nhanh hơn cũng sẽ giúp giảm tỷ lệ nợ xấu. Những ngân hàng tăng cường trích lập dự phòng và thu hồi nợ xấu trong năm 2024 được dự báo sẽ có thể đẩy mạnh tín dụng trong năm 2025.
Nhìn chung, MBS Research kỳ vọng các ngân hàng theo dõi có thể giảm NPL trung bình xuống dưới 2% vào cuối năm 2025 (2024: 2,1%), giúp tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) vượt ngưỡng 100%.

MBS Research đồng thời giảm dự báo tăng trưởng lợi nhuận ròng của các ngân hàng theo dõi xuống còn 17,7% trong năm 2025 so với 20,2% trong dự báo trước.
Các ngân hàng sẽ tiếp tục duy trì lãi suất cho vay thấp trong năm 2025 để hỗ trợ người đi vay do áp lực cạnh tranh lớn trong việc thúc đẩy tín dụng. Sự phục hồi chậm của các khoản vay mua nhà, do nguồn cung bất động sản hạn chế, đã làm chậm lại tín dụng bán lẻ trong năm 2024, và xu hướng này có thể tiếp tục trong nửa đầu năm 2025, khiến lợi suất tài sản của các ngân hàng giảm thêm.
Với áp lực tăng lãi suất tiền gửi trong các quý tới, dự báo NIM của các ngân hàng khó có thể tăng mạnh trong năm 2025.

Theo đó, lợi nhuận ròng của các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân dự báo tăng lần lượt 14,7% và 19,8% so với cùng kỳ. Áp lực tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng quốc doanh cao hơn so với các ngân hàng tư nhân, do vai trò ổn định vĩ mô khiến các ngân hàng này thận trọng hơn trong việc đẩy mạnh tín dụng vào phân khúc bán lẻ, qua đó hạn chế mức tăng của NIM.
Từ những phân tích trên, MBS Research đánh giá tiềm năng với ba cổ phiếu CTG, VPB và BID dựa trên hưởng lợi từ đầu tư công và sự phục hồi của tiêu dùng; gánh nặng trích lập dự phòng giảm dần trong những năm tới nhờ những nỗ lực đáng kể trong thời gian qua; định giá hấp dẫn hơn so với các ngân hàng tương đương khác.