Tìm lời giải cho bài toán hút 700 tỷ USD vốn xanh

Tín dụng xanh bứt tốc lên 750 nghìn tỷ đồng, nhưng phía sau đà tăng ấn tượng ấy là bài toán vốn trung – dài hạn ngày càng nặng gánh, buộc ngành ngân hàng phải trông chờ sự nhập cuộc mạnh mẽ hơn của các kênh vốn ngoài hệ thống và chính sách ưu đãi đủ lực...

anh-t31-1.png

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nhu cầu nguồn lực tài chính để hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia và cam kết phát thải ròng zero vào năm 2050 là rất lớn.

Với kịch bản trung hòa carbon, đến năm 2050, tổng nhu cầu đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế bền vững ước khoảng 670–700 tỷ USD. Trong đó, riêng nhu cầu cho thích ứng với biến đổi khí hậu lên tới khoảng 368 tỷ USD, tương đương gần 6,8% GDP mỗi năm.

Quy mô nguồn vốn khổng lồ này đặt ra yêu cầu phải huy động đồng bộ mọi nguồn lực cho tăng trưởng xanh, đặc biệt là từ thị trường vốn thông qua trái phiếu xanh, tín dụng xanh, thị trường carbon và các nguồn vốn quốc tế, bên cạnh ngân sách nhà nước.

NGÂN HÀNG DẪN DẮT DÒNG VỐN XANH

Phát biểu tại Hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững”, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Ngọc Cảnh cho biết, tính đến ngày 30/11/2025, dư nợ tín dụng xanh của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 750.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2017 – tháng 9/2025, tín dụng xanh tăng trưởng bình quân khoảng 21%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế.

Theo Phó Thống đốc, con số này cho thấy các tổ chức tín dụng đang dành sự quan tâm lớn cho việc hình thành và mở rộng kênh vốn phục vụ tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.

canh-1.jpg
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Ngọc Cảnh

Tuy nhiên, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cũng nhìn nhận rằng, để đáp ứng các mục tiêu tăng trưởng xanh và các cam kết quốc tế, việc chỉ dựa vào kênh tín dụng ngân hàng là chưa đủ, thậm chí tạo áp lực lớn lên toàn hệ thống. Theo ước tính của UNESCAP, Việt Nam cần huy động khoảng 45–55 tỷ USD mỗi năm cho mục tiêu này, con số vượt xa khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước và hệ thống ngân hàng.

Vì vậy, định hướng sắp tới là đa dạng hóa nguồn lực tài chính, trong đó nhấn mạnh vai trò của khu vực tư nhân, thị trường chứng khoán và các nguồn vốn quốc tế.

“Việc mở rộng các kênh vốn đầu tư tài chính xanh không chỉ giúp giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng, mà quan trọng hơn là tạo điều kiện huy động nguồn vốn trung và dài hạn một cách linh hoạt, an toàn, hiệu quả hơn, phù hợp với xu hướng tài chính xanh toàn cầu”, Phó Thống đốc Nguyễn Ngọc Cảnh nhấn mạnh.

Là ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực “tam nông”, đại diện Agribank - ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng nhận định năm 2025 là thời điểm mang tính bước ngoặt nhờ những thay đổi mang tính đột phá về hành lang pháp lý.

Đáng chú ý nhất là Nghị định 156/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 1/7/2025). Theo ông Quý, đây được xem là “cú hích lịch sử” khi cho phép các tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm lên tới 70% giá trị dự án đối với các mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ hoặc kinh tế tuần hoàn.

quy-1.jpg
Ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng Agribank

Chính sách này giúp các ngân hàng chuyển từ tư duy cho vay dựa trên tài sản thế chấp sang cho vay dựa trên dòng tiền và hiệu quả của dự án xanh. Qua đó, mở ra cơ hội lớn để doanh nghiệp và hợp tác xã tiếp cận vốn cho những nhu cầu cấp thiết như chuyển đổi số, đáp ứng các tiêu chuẩn ESG nhằm mở rộng xuất khẩu sang EU, Mỹ hay Nhật Bản.

Song song với đó, Quyết định 21/2025/QĐ-TTg về danh mục phân loại xanh cũng hỗ trợ Agribank trong việc nhận diện, thẩm định dự án, hạn chế rủi ro “tẩy xanh” (greenwashing). Tính đến quý 3/2025, dư nợ tín dụng xanh của Agribank đã vượt mốc 28.000 tỷ đồng.

Dù vậy, Agribank kiến nghị Chính phủ sớm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về phát thải, đồng thời chuẩn hóa các quy định đo lường khí nhà kính, nhằm tạo nền tảng cho ngân hàng đánh giá rủi ro và hiệu quả dự án một cách chính xác hơn.

SẮP CÓ GÓI HỖ TRỢ LÃI SUẤT 2% TỪ NGÂN SÁCH

Cũng tại Hội thảo, bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) đã chia sẻ những thông tin đáng chú ý liên quan đến chính sách hỗ trợ lãi suất cho các dự án xanh.

Theo bà Tùng, thực hiện Nghị quyết 198 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ ngân sách nhà nước. Đối tượng thụ hưởng là doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh vay vốn để triển khai các dự án xanh, kinh tế tuần hoàn.

tung-vu-tin-dung.jpg
Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước)

Dự kiến, Nghị định này sẽ được trình Chính phủ xem xét, ban hành trong thời gian rất gần và có thể bắt đầu triển khai từ đầu năm 2026. Nguồn ngân sách hỗ trợ sẽ được phân bổ trực tiếp về các địa phương để tổ chức thực hiện.

Tuy nhiên, để chính sách đi vào thực tiễn một cách hiệu quả, bà Tùng nhấn mạnh sự cần thiết của một “kiềng ba chân” đồng bộ, gồm: Nghị định về hỗ trợ lãi suất qua hệ thống ngân hàng; Nghị định về hỗ trợ thông qua các quỹ nhà nước; và đặc biệt là việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm ban hành Quyết định quy định tiêu chí xác định dự án xanh làm cơ sở giải ngân.

Bên cạnh tín dụng ngân hàng, thị trường vốn cũng ghi nhận những tín hiệu tích cực. Bà Phạm Thị Thanh Tâm, Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, sau khi Quyết định 21 về tiêu chí xanh được ban hành, thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh đã có bước tăng trưởng đáng kể.

Tính đến tháng 10/2025, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp xanh đạt xấp xỉ 1 tỷ USD. Theo bà Tâm, đây là tín hiệu tích cực, cho thấy doanh nghiệp đã bắt đầu chủ động tìm kiếm nguồn vốn dài hạn từ thị trường vốn, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào tín dụng ngân hàng. Hiện Bộ Tài chính cũng đang nghiên cứu đề án thí điểm phát hành trái phiếu dịch vụ xanh, dự kiến trình Chính phủ trong năm 2026.

Các chuyên gia đến từ ADB và nhiều tổ chức trong nước cùng thống nhất rằng, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh, Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái tài chính đồng bộ. Từ việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu phát thải, nâng cao năng lực thực hành ESG cho doanh nghiệp, đến khơi thông dòng vốn trái phiếu và triển khai nhanh các gói hỗ trợ lãi suất. Chỉ khi có sự cộng hưởng giữa chính sách nhà nước, vốn ngân hàng và thị trường vốn tư nhân, bài toán nguồn lực cho phát triển bền vững mới có thể được giải quyết thỏa đáng.

ĐA DẠNG HÓA CÁC KÊNH HUY ĐỘNG VỐN

Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về đa dạng hóa nguồn vốn cho phát triển bền vững, ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam – cho rằng Việt Nam cần tiếp tục mở rộng các kênh huy động vốn, đặc biệt là phát triển thị trường vốn và thị trường trái phiếu doanh nghiệp để bổ trợ cho hệ thống ngân hàng.

Theo ông Hùng, định hướng dài hạn là từng bước duy trì tăng trưởng tín dụng hợp lý, song song với việc giảm dần tỷ trọng tín dụng ngân hàng trong tổng cung vốn, chuyển dịch sang kênh trái phiếu. Qua đó, giúp hạ dần tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP và giảm rủi ro cho hệ thống tài chính.

ong-nguyen-ba-hung-kinh-te-truong-ngan-hang-phat-trien-chau-a-adb.jpg
Ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)

Đối với khu vực tư nhân, cần phát triển đồng bộ các thị trường tài chính trong nước, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường nợ và thị trường chứng khoán, cùng với hệ sinh thái dịch vụ tài chính như ngân hàng, đầu tư, môi giới và tư vấn. Đồng thời, việc tăng cường kết nối với thị trường tài chính quốc tế sẽ giúp Việt Nam huy động được nguồn vốn quy mô lớn hơn và nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ tài chính cho mục tiêu phát triển bền vững.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Hài Hòa, Phó Tổng giám đốc kiêm Trưởng ban Tài chính Tập đoàn Sun Group cho biết các dự án của tập đoàn đều đòi hỏi nguồn vốn đầu tư dài hạn, buộc doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm cả nguồn vốn trong nước lẫn quốc tế.

Theo bà Hòa, để tiếp cận được vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, doanh nghiệp tư nhân cần đáp ứng các yêu cầu khắt khe về minh bạch tài chính, tính khả thi của dự án, hiệu quả phương án kinh doanh và sự an toàn của dòng tiền. Bên cạnh đó là uy tín trên thị trường, thể hiện qua xếp hạng tín nhiệm và lịch sử hoạt động.

Tuy nhiên, việc đáp ứng các tiêu chí này không hề dễ dàng. Các yêu cầu như bảo hiểm rủi ro tỷ giá hay bảo lãnh từ tổ chức tín dụng đều khiến doanh nghiệp phát sinh thêm chi phí đáng kể. Trong bối cảnh đó, bà Hòa cho rằng việc phát triển mạnh thị trường trái phiếu trong nước sẽ là giải pháp hiệu quả hơn, giúp doanh nghiệp huy động vốn dài hạn với chi phí hợp lý và chủ động hơn trong kế hoạch tài chính.

Xem thêm

Có thể bạn quan tâm

Cuối năm, lãi suất thẻ tín dụng bất ngờ tăng cao

Cuối năm, lãi suất thẻ tín dụng bất ngờ tăng cao

Khi lãi suất thẻ tín dụng không ngừng tăng, việc trang bị kiến thức tài chính cá nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, bởi một công cụ hỗ trợ dòng tiền hữu ích có thể nhanh chóng biến thành gánh nặng nếu người dùng thiếu hiểu biết hoặc kỷ luật thanh toán...