Thủ tướng lý giải nguyên nhân các chỉ tiêu năm 2023 khó đạt, kỳ vọng GDP trên 5%

Trong năm nay, dự kiến có 5 chỉ tiêu khó đạt kế hoạch đề ra, do tác động, ảnh hưởng nặng nề từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ bên trong, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn…

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
1111-1673601849841545399935-0-166-1125-1966-crop-1673601858183256514684 (3).jpeg
Dự kiến có 5 chỉ tiêu kinh tế khó đạt kế hoạch đề ra

Sáng 8/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày báo cáo giải trình, làm rõ thêm một số vấn đề được các vị đại biểu Quốc hội, đồng bào, cử tri quan tâm và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.

PHẤN ĐẤU TĂNG TRƯỞNG GDP TRÊN 5%

Đầu kỳ họp, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về đánh giá tình hình, kết quả phát triển kinh tế - xã hội 9 tháng và dự báo cả năm 2023. Trong tháng 10, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau cao hơn tháng trước, đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Lạm phát tiếp tục được kiểm soát; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 10 tháng tăng 3,2%. Khu vực công nghiệp phục hồi tích cực; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ.

Các khu vực nông nghiệp, dịch vụ tiếp tục tăng trưởng tốt; xuất khẩu nông sản 10 tháng đạt 43,08 tỷ USD; trong đó vừa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, vừa xuất khẩu 7,12 triệu tấn gạo, trị giá 3,97 tỷ USD. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 10 đạt 61,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với tháng trước; tính chung 10 tháng đạt khoảng 558 tỷ USD, xuất siêu 24,61 tỷ USD. Thu ngân sách nhà nước 10 tháng đạt 86,3% dự toán.

Bên cạnh đó, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam đạt 25,76 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ; vốn FDI thực hiện đạt 18 tỷ USD, tăng 2,4%. Giải ngân vốn đầu tư công đạt 56,74% kế hoạch, cao hơn 5,5% so với cùng kỳ (51,34%), số tuyệt đối cao hơn 104 nghìn tỷ đồng.

anh-chup-man-hinh-2023-09-29-luc-093044-8230 (1).png

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn những hạn chế, bất cập; sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp khó khăn; thị trường lao động, việc làm trong một số lĩnh vực suy giảm; tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên còn cao; thiên tai, bão lũ, sạt lở đất tiếp tục ảnh hưởng lớn đến khu vực miền Trung…, đúng như các vị đại biểu Quốc hội đã nêu.

Trong thời gian còn lại của năm 2023, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực, vừa giải quyết những vấn đề trước mắt, vừa chuẩn bị cơ sở, tiền đề cho những năm tiếp theo.

Trong đó tập trung thúc đẩy các động lực tăng trưởng (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), các địa phương đầu tàu tăng trưởng; thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng tổng cầu, nhất là các chính sách tài khoá, tiền tệ.

Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo, tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đất đai, mở rộng thị trường, đa dạng sản phẩm, chuỗi cung ứng; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thu hút vốn đầu tư xã hội, đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài; thúc đẩy phát triển mạnh công nghiệp; đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước và thúc đẩy xuất khẩu, tận dụng tốt cơ hội thị trường vào dịp cuối năm, lễ, Tết; bảo đảm ổn định giá cả, thị trường, nhất là những mặt hàng thiết yếu.

Đồng thời theo dõi sát, nắm chắc diễn biến tình hình quốc tế, trong nước, phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả với những vấn đề mới phát sinh; nỗ lực phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2023, trong đó tăng trưởng GDP đạt trên 5%, tạo đà cho việc thực hiện kế hoạch năm 2024.

NHIỀU CHỈ TIÊU KHÓ CÁN MỐC

Báo cáo của Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, như Chính phủ đã báo cáo Quốc hội, dự kiến có 5 chỉ tiêu khó đạt kế hoạch đề ra, gồm: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP); GDP bình quân đầu người; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội; tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tốc độ tăng GDP dự kiến không đạt kế hoạch đề ra là do tác động, ảnh hưởng nặng nề từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập từ bên trong, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn.

Trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Hiện tốc độ tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu là một yếu tố quan trọng dẫn đến các chỉ tiêu khác như GDP bình quân đầu người, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội cũng không đạt được mục tiêu đề ra. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chịu ảnh hưởng nặng nề từ thị trường quốc tế, tính chung 10 tháng chỉ đạt 0,5% tăng trưởng, dẫn đến chỉ tiêu tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP thấp hơn mục tiêu đề ra.

081120231058-z4859665890197_c08d7fe42a9a5adc1613af34b0d9f74d.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày báo cáo

Bên cạnh đó, áp lực cắt giảm việc làm do sản xuất kinh doanh khó khăn tạo ra sự chuyển dịch lao động sang khu vực nông nghiệp, dẫn đến tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động có việc làm khoảng 26,9%, khó đạt mục tiêu đặt ra 26,2%.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tập trung thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Thứ nhất, tiếp tục ưu tiên thúc đẩy các động lực tăng trưởng như đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; tập trung phát triển mạnh thị trường trong nước; mở rộng xuất khẩu.

Thứ hai, đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công, đồng thời tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài.

Thứ ba, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là mở rộng thị trường, kiên quyết cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh không cần thiết, làm tăng chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp.

Thứ tư, đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, các ngành, lĩnh vực mới nổi và công nghiệp hỗ trợ.

Thứ năm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp.

Thứ sáu, tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng, phát huy vai trò của 6 vùng kinh tế - xã hội, tạo các động lực mới cho phát triển nhanh, bền vững.

NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG XÃ HỘI CAO HƠN BÌNH QUÂN KHU VỰC

Cũng tại báo cáo, Thủ tướng chính phủ đánh giá, năng suất lao động xã hội (được tính bằng GDP/tổng số lao động làm việc bình quân trong nền kinh tế) là một trong những thước đo quan trọng đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.

Trong nhiều năm qua, năng suất lao động xã hội của Việt Nam tăng trưởng liên tục và cao hơn so với bình quân của khu vực, thế giới. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn chưa đạt mục tiêu Quốc hội đề ra.

Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp là do tăng trưởng GDP không đạt mục tiêu đề ra; đồng thời, do đại dịch Covid - 19, nhu cầu quốc tế suy giảm dẫn đến sự chuyển dịch lao động từ các khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn sang khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính thức có năng suất lao động thấp hơn và tình trạng làm việc tạm thời, lao động bán thời gian tăng lên.

Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực và trình độ khoa học – công nghệ còn hạn chế; năng lực quản trị doanh nghiệp, quản lý lực lượng lao động còn bất cập và một số nguyên nhân khác cũng đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng năng suất lao động xã hội trong thời gian qua.

Theo Thủ tướng, trong những tháng tới Chính phủ tập trung chỉ đạo, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là khu vực công nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt là thu hút lao động nông nhàn, phi chính thức sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ.

Cùng với đó, là đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa vào khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử, các ngành, lĩnh vực mới nổi; sớm hoàn thiện, ban hành Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động.

ldv-1694596657410277190366.jpg
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam tăng trưởng liên tục và cao hơn so với bình quân của khu vực, thế giới

Tạo bước chuyển biến thực chất trong đào tạo đại học và đào tạo nghề; nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, phát triển các sàn giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động.

Đồng thời, tập trung đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng đô thị, hạ tầng xã hội về giáo dục, y tế...; phát triển mạnh thị trường khoa học – công nghệ, phát huy hiệu quả các quỹ về khoa học- công nghệ; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia.

Cuối cùng, tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là về đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác chặt chẽ với các quốc gia, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp để tranh thủ các nguồn lực về vốn, công nghệ, quản trị quốc gia; qua đó góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động xã hội, khả năng cạnh tranh và tiềm lực kinh tế của đất nước.

Có thể bạn quan tâm