Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam trong tháng vẫn tăng trưởng và đạt được nhiều kết quả khả quan. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là điểm sáng và nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; Dự kiến 15/15 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch; tăng trưởng cả năm ước đạt trên 7%.
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Chỉ số giá điện sinh hoạt, giá nhà ở thuê và vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2024 tăng 0,13% so với tháng trước.
So với tháng cùng kỳ năm 2023, CPI trong tháng tăng 2,65% và so với cùng kỳ năm ngoái tăng 2,77%. Lũy kế 11 tháng năm 2024, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ năm 2023; lạm phát cơ bản tăng 2,7%.
Trong mức tăng 0,13% của CPI tháng 11 năm 2024 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Lạm phát cơ bản trong tháng tăng 0,24% so với tháng trước và tăng 2,77% so với cùng kỳ năm 2023.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,7% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,69%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 27/11/2024, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.696,8 USD/ounce, tăng 0,12% so với tháng 10 năm 2024. Đầu tháng 11 năm 2024, giá vàng thế giới giảm đáng kể tuy nhiên, đợt giảm này chỉ kéo dài trong thời gian ngắn, giá vàng nhanh chóng phục hồi trong các tuần sau đó.
Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 11 năm 2024 tăng 2,26% so với tháng trước; tăng 32,91% so với tháng 12 năm 2023 và tăng 38,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 11 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,42%.
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
Các giải pháp đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng tháng cuối năm đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng ngành dịch vụ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 11 năm 2024 ước đạt 562,0 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 11,2%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 12,9%; doanh thu du lịch lữ hành tăng 12,5% do lượng khách quốc tế đến Việt Nam và khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.822,3 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ tăng 9,7%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ tăng 7,0%).
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng năm 2024 ước đạt 4.487,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,1% tổng mức và tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,8%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,9%; may mặc tăng 8,1%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) tăng 7,4%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 5,6%.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023 của một số địa phương như sau: Hải Phòng tăng 9,5%; Quảng Ninh tăng 9,3%; Đà Nẵng tăng 7,4%; Hà Nội tăng 6,5%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 5,2%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng năm 2024 ước đạt 669,0 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,5% tổng mức và tăng 13,0% so với cùng kỳ năm 2023. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm ngoái của một số địa phương như sau: Khánh Hòa tăng 17,0%; Hải Phòng tăng 13,2%; Cần Thơ tăng 12,6%; Hà Nội tăng 10,7%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,4%; Bình Dương tăng 8,3%.
Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng năm 2024 ước đạt 57,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,0% tổng mức và tăng 17,3% so với cùng kỳ năm ngoái do các địa phương ngay từ đầu năm đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến du lịch, tăng cường thu hút khách trong nước và quốc tế. Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng năm 2024 của một số địa phương như sau: Cần Thơ tăng 31,2%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 17,7%; Khánh Hòa tăng 16,6%; Hà Nội và Bình Định cùng tăng 12,6%; Vũng Tàu tăng 8,1%.
Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng năm 2024 ước đạt 608,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,4% tổng mức và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2023. Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng năm 2024 của một số địa phương như sau: Bình Thuận tăng 22,5%; Cần Thơ tăng 12,0%; Hà Nội tăng 8,5%.
HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Trong tháng, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký đạt gần 138,6 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 90,2 nghìn lao động, giảm 21,3% về số doanh nghiệp, giảm 9,8% về vốn đăng ký và tăng 12,0% về số lao động so với tháng 10/2024.
So với cùng kỳ năm 2023, giảm 22,6% về số doanh nghiệp, giảm 27,2% về số vốn đăng ký và giảm 0,8% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 12,4 tỷ đồng, tăng 14,7% so với tháng trước và giảm 5,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh đó, cả nước còn có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% so với tháng trước và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2023.
CÁN CÂN XUẤT - NHẬP KHẨU
Cũng trong tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 66,4 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 11 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu tăng 14,4%; nhập khẩu tăng 16,4%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,31 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11 năm 2024 sơ bộ đạt 33,73 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,85 tỷ USD, giảm 4,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 23,88 tỷ USD, giảm 5,7%.
So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng tăng 8,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 13,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,1%.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 369,93 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 103,88 tỷ USD, tăng 20,0%, chiếm 28,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 266,05 tỷ USD, tăng 12,4%, chiếm 71,9%.
Trong 11 tháng năm 2024 có 36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66,5%).
Nhập khẩu hàng hóa:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11 năm 2024 sơ bộ đạt 32,67 tỷ USD, giảm 2,8% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 12,38 tỷ USD, giảm 2,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 20,29 tỷ USD, giảm 3,0%.
So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng tăng 9,8%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 15,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 6,8%.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 345,62 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 126,05 tỷ USD, tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 219,57 tỷ USD, tăng 15,2%.
Trong 11 tháng năm 2024 có 44 mặt hàng nhập khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92,6% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 5 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 51,4%).
CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP (IIP)
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tháng 11 năm 2024 ước tính tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, so với cùng kỳ năm ngoái, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,2%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,7%; riêng ngành khai khoáng giảm 9,8%.
Lũy kế 11 tháng năm 2024, IIP ước tăng 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ tăng 0,9%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7% (cùng kỳ tăng 1,0%), đóng góp 8,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,2%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,6%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 7,3%, làm giảm 1,2 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp kể từ đầu tháng tăng 0,7% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,4% so với cùng thời điểm năm 2023. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,1% và giảm 0,1%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,7% và tăng 2,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,8% và tăng 5,3%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng không đổi so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,1% so với cùng thời điểm năm ngoái. Ngành chế biến, chế tạo tăng 0,8% và tăng 4,8%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và giảm 0,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,2% và tăng 1,1%.
THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2024 ước tăng 16,1% và chi ngân sách Nhà nước ước tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2023, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Thu ngân sách Nhà nước:
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 11 năm 2024 ước đạt 139,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 11 tháng năm 2024 ước đạt 1.808,5 nghìn tỷ đồng, bằng 106,3% dự toán năm và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa tháng 11 năm 2024 ước đạt 116,7 nghìn tỷ đồng; lũy kế 11 tháng năm 2024 ước đạt 1.506,5 nghìn tỷ đồng, bằng 104,3% dự toán năm và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2023.
- Thu từ dầu thô tháng 11 năm 2024 ước đạt 4,5 nghìn tỷ đồng; lũy kế 11 tháng năm 2024 ước đạt 52,7 nghìn tỷ đồng, bằng 114,5% dự toán năm và giảm 7,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 11 năm 2024 ước đạt 18,1 nghìn tỷ đồng; lũy kế 11 tháng năm 2024 ước đạt 248,6 nghìn tỷ đồng, bằng 121,9% dự toán năm và tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Chi ngân sách Nhà nước:
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 11 năm 2024 ước đạt 170,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế 11 tháng năm 2024 ước đạt 1.560,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6% dự toán năm và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong đó, chi thường xuyên 11 tháng năm 2024 ước đạt 1.055,8 nghìn tỷ đồng, bằng 83,8% dự toán năm và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm ngoái; chi đầu tư phát triển đạt gần 411 nghìn tỷ đồng, bằng 60,7% và giảm 8,6%; chi trả nợ lãi 91,8 nghìn tỷ đồng, bằng 82,2% và tăng 6,4%.
VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HÀNG HÓA
Hoạt động vận tải trong tháng tăng trưởng tích cực, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong nước cũng như khách quốc tế đến Việt Nam, phục vụ sản xuất, tiêu dùng, xuất nhập khẩu tăng cao trong những tháng cuối năm.
So với cùng kỳ năm 2023, vận tải hành khách tháng 11 năm 2024 tăng 10,4% về vận chuyển và tăng 12,0% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 13,5% về vận chuyển và tăng 14,4% về luân chuyển. Lũy kế 11 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 8,2% và luân chuyển tăng 11,6% so với cùng kỳ năm ngoái; vận chuyển hàng hóa tăng 14,1% và luân chuyển tăng 11,5%.
Vận tải hành khách tháng 11 năm 2024 ước đạt 464,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 2,5% so với tháng trước và luân chuyển 23,8 tỷ lượt khách/km, tăng 3,5%. Lũy kế 11 tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 4.596,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển đạt 250,9 tỷ lượt khách/km, tăng 11,6%.
Vận tải trong nước ước đạt 4.578,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm ngoái và 203,6 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 11,4%; vận tải ngoài nước ước đạt 18,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 29,6% và 47,3 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 12,7%.
Vận tải hàng hóa tháng 11 năm 2024 ước đạt 246,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 1,1% so với tháng trước và luân chuyển 49,6 tỷ tấn/km, tăng 2,6%. Lũy kế 11 tháng năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 2.420,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển 493,5 tỷ tấn/km, tăng 11,5%.
Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 2.376,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,3% và 303,6 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm ngoái; vận tải ngoài nước ước đạt 44,0 triệu tấn vận chuyển, tăng 5,9% và 189,9 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 15,4%.
KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM
Chính sách thị thực thuận lợi, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh cùng với những giải thưởng du lịch danh giá được các tổ chức quốc tế trao tặng đã thu hút khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng.
Trong tháng 11 năm 2024, khách quốc tế đến nước ta ước đạt 1,7 triệu lượt người, tăng 38,8% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 11 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 15,8 triệu lượt người, tăng 41,0% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong tổng số 15,8 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam kể từ đầu năm, khách đến bằng đường hàng không đạt gần 13,4 triệu lượt người, chiếm 84,5% lượng khách quốc tế đến và tăng 36,4% so với cùng kỳ năm 2023; bằng đường bộ đạt hơn 2,2 triệu lượt người, chiếm 14,1% và tăng 67,4%; bằng đường biển đạt 221,2 nghìn lượt người, chiếm 1,4% và tăng 151,7%.
VỐN FDI ĐĂNG KÝ CẤP MỚI
Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện. Lũy kế 11 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 73,5% kế hoạch năm, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD tăng 7,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11 năm 2024 ước đạt gần 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 13,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8%; vốn địa phương quản lý 62,7 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1%. Lũy kế 11 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 572,0 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% kế hoạch năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ bằng 76,3% và tăng 24,3%).
Trong số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 11 tháng năm 2024, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 5,78 tỷ USD, chiếm 33,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 2,32 tỷ USD, chiếm 13,4%; Trung Quốc 2,21 tỷ USD, chiếm 12,7%; Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) 1,96 tỷ USD, chiếm 11,3%.
7 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới là Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Thái Bình, Ninh Thuận và Đồng Nai.