Theo báo cáo, dù phải đối mặt với cú sốc lớn nhất toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam dự kiến tăng trưởng gần 3% năm 2020 trong khi kinh tế thế giới dự kiến suy giảm ít nhất 4%.
WB cho rằng Việt Nam có được kết quả như vậy là nhờ khả năng chống chịu của cả khu vực kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại. Không chỉ kiềm chế được đại dịch bằng những biện pháp quyết liệt, sáng tạo, Chính phủ còn sử dụng các chính sách tài khóa, tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân và thúc đẩy phục hồi. Trong 9 tháng đầu năm 2020, giải ngân đầu tư công đã tăng đến 40% so với cùng kỳ năm trước.
Khu vực kinh tế đối ngoại, động lực tăng trưởng kinh tế chính của Việt Nam trong thập kỷ qua, đạt kết quả rất tốt kể từ khi khủng hoảng do đại dịch Covid-19 bắt đầu. Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức xuất khẩu hàng hóa đạt thặng dư lớn nhất từ trước đến nay đồng thời dự trữ ngoại hối tăng.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam kết hợp với xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh đã bù đắp thất thu về ngoại tệ do hoạt động du lịch suy giảm, nguồn kiều hối bị thu hẹp.
Báo cáo cho biết các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục đầu tư và đang dịch chuyển các hoạt động sản xuất sang Việt Nam.
Trong thời gian tới, triển vọng của Việt Nam được WB đánh giá là tích cực khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức khoảng 6,8% trong năm 2021 và sẽ ổn định quanh mức 6,5% các năm tiếp theo.
Dự báo này dựa trên giả định rằng khủng hoảng Covid-19 sẽ dần được kiểm soát, khi vaccine Covid-19 chứng minh được tính hiệu quả. Mặc dù vậy, quy mô và thời gian kéo dài của đại dịch cũng như những tác động kinh tế của nó khó có thể dự báo, và do đó không thể bỏ qua một kịch bản tăng trưởng thấp hơn hơn. Báo cáo nhấn mạnh rằng tại Việt Nam vẫn còn tiềm tàng những rủi ro tài khóa, tài chính, và xã hội, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền cần quan tâm hơn nữa.
Bên cạnh phân tích về những xu hướng gần đây của nền kinh tế Việt Nam, ấn phẩm lần này với tiêu đề "Từ Covid-19 đến biến đổi khí hậu: Làm thế nào để Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong phục hồi xanh", đặt câu hỏi tại sao Việt Nam lại chưa xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường hiệu quả như với khủng hoảng Covid-19, tuy được cho là có khác biệt nhưng thực ra lại có nhiều điểm tương đồng.
Cũng giống như đại dịch, những thảm họa về khí hậu và môi trường cũng gây ra thiệt hại rất lớn về người và của và đều cho thấy cuộc sống con người rất mong manh.
Báo cáo cũng bàn chi tiết về nhóm chính sách có thể giúp Việt Nam ổn định nền kinh tế, giảm nhu cầu đầu tư trong thời kỳ thắt lưng buộc bụng sắp tới, đồng thời hoàn thành các chỉ tiêu về khí hậu trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Báo cáo cho rằng Việt Nam có thể đạt được khát vọng trở thành nền kinh tế thu nhập cao trước năm 2045 hay không không chỉ dựa vào khả năng Việt Nam vượt qua khủng hoảng Covid-19 thành công mà còn dựa vào sự hiệu quả trong quản lý các nguồn tài nguyên và rủi ro khí hậu. Rốt cuộc, mục tiêu phát triển kinh tế không chỉ để làm ra thêm của cải mà còn là không phá hủy những gì đang có.