Thử nghiệm giai đoạn 2 được công bố vào 2/12 trên tạp chí y khoa The Lancet đã xem xét tính an toàn và hiệu quả của 7 loại vaccine khác nhau có thể sử dụng như mũi tiêm tăng cường sau hai liều đầy đủ của vaccine AstraZeneca hoặc Pfizer.
Các loại vắc xin được đưa vào nghiên cứu gồm có AstraZeneca, Pfizer, Novavax, Johnson & Johnson, Moderna, Valneva và Curevac.
Nghiên cứu với sự tham gia của 2.878 người lớn trên 30 tuổi, cho thấy không có vaccine nào trong số 7 loại vắc xin gây lo ngại về tính an toàn. Mệt mỏi, nhức đầu và đau tại chỗ tiêm là những tác dụng phụ phổ biến nhất và chủ yếu được báo cáo ở những người trẻ tuổi.
Tổng cộng 912 người tham gia đã trải qua các tác dụng phụ từ việc tiêm nhắc lại, với 24 trường hợp nghiêm trọng được báo cáo trong quá trình nghiên cứu.
Những người tham gia “có sức khỏe tốt” và đến từ 18 khu vực khác nhau của Vương quốc Anh, các tác giả của nghiên cứu cho biết. Khoảng một nửa đã nhận được hai liều vaccine AstraZeneca, với nhóm còn lại là tiêm đầy đủ Pfizer.
Thay đổi trong phản ứng miễn dịch
Bốn tuần sau khi thử nghiệm mũi tiêm tăng cường, các nhà nghiên cứu đã đo mức độ kháng thể của những người tham gia đối với protein đột biến của Covid-19.
Protein đột biến là một phần quan trọng trong cấu trúc cảu virus cho phép nó xâm nhập vào tế bào con người.
Phản ứng của tế bào T, đóng vai trò cốt lõi trong việc chống lại virus và một số ảnh hưởng trở bệnh nghiêm trọng do virus, cũng được theo dõi.
Những kết quả đó được đo lường dựa trên các biến thể alpha, beta và delta, cũng như chủng gốc xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc.
Tất cả 7 loại vaccine đều tăng cường khả năng miễn dịch khi được tiêm từ 10 đến 12 tuần sau hai liều vaccine đầy đủ AstraZeneca, nghiên cứu cho thấy.
Trong đó, các loại vaccine ngoại trừ Valneva đều đã tăng cường khả năng miễn dịch ở những người tham gia có hai liều ban đầu là vaccine Pfizer.
Ở những người tham gia ban đầu đã tiêm hai liều AstraZeneca, mức độ kháng thể tấn công protein tăng đột biến cao hơn từ 1,8 lần (sau khi tiêm tăng cường Valneva) và cao hơn 32,3 lần (sau khi tiêm tăng cường Moderna) 28 ngày sau mũi tiêm thứ ba. Ở những người có hai liều đầu tiên là Pfizer, mức độ kháng thể tăng sau mũi tiêm tăng cường dao động từ cao hơn 1,3 lần (sau Valneva) đến 11,5 lần (sau Moderna).
Những giới hạn của nghiên cứu
Tuy nhiên, các tác giả của nghiên cứu lưu ý rằng họ vẫn chưa nghiên cứu xem các kết hợp tăng cường khác nhau hoạt động tốt như thế nào trong việc ngăn ngừa sự lây nhiễm, nhập viện và tử vong do Covid-19. Họ nói thêm rằng mối quan hệ giữa mức độ kháng thể trong 4 tuần kể từ khi tiêm tăng cường và miễn dịch lâu dài vẫn chưa được biết rõ.
Saul Faust, trưởng nhóm thử nghiệm và giám đốc Cơ sở Nghiên cứu Lâm sàng NIHR tại Bệnh viện Đại học Southampton, cho biết những phát hiện này “thực sự đáng khích lệ”.
“[Nghiên cứu này] mang lại sự tự tin và linh hoạt trong việc phát triển các chương trình tăng cường tiêm chủng ở Vương quốc Anh và trên toàn cầu, cùng với các yếu tố khác như chuỗi cung ứng và hậu cần cũng đang được triển khai, sao cho phù hợp” ông nói trong một thông cáo báo chí.
“Các công việc tiếp theo sẽ tạo ra dữ liệu sau ba tháng và một năm sau khi mọi người nhận được mũi tiêm tăng cường, điều này sẽ cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về tác động của chúng đối với khả năng bảo vệ lâu dài và ‘trí nhớ miễn dịch’.”
Các hạn chế khác còn bao gồm độ tuổi của những người tham gia, thực tế là hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều là người da trắng và khoảng thời gian ngắn giữa các liều có thể làm giảm phản ứng miễn dịch.
Nhóm nghiên cứu hiện đang nghiên cứu tác động của mũi tăng cường từ bảy đến tám tháng sau liều lượng ban đầu, với kết quả dự kiến sẽ có vào năm 2022.
Ở Vương quốc Anh, hầu hết người dân đều được chọn vaccine Pfizer hoặc Moderna để tiêm nhắc lại, mặc dù một số người được tiêm AstraZeneca nếu họ không có các lựa chọn thay thế.
FDA Hoa Kỳ đã cho phép sử dụng vắc xin Moderna và Pfizer trong chương trình tăng cường tiêm chủng của quốc gia, trong khi ở Israel, chỉ có vaccine Pfizer đang được sử dụng cho liều tăng cường.