Khi Hội nghị về Biến đổi Khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2023 (COP28) đang diễn ra tại Dubai, lời kêu gọi các nước giàu cung cấp thêm tiền cho các nước nghèo để chống lại biến đổi khí hậu đã trở thành tâm điểm. Nhưng trên thực tế, những hồ sơ về tài chính khí hậu lại cho thấy các nước nghèo nên cẩn thận với những hứa hẹn về tài chính ấy...
Với "mục tiêu tối thượng" NetZero, những vấn đề bất cập về tài chính khí hậu vẫn đang bị bỏ qua dù có rất nhiều mảng tối. Tháng 7/2023, Hoa Kỳ và các thành viên khác của G-20 đã từ chối tán thành đề xuất Ngân hàng Thế giới tăng gấp ba lần khoản cho vay với nguồn vốn mới từ cổ đông lớn nhất.
Theo ước tính chưa được xác nhận của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), các nước giàu hầu như không đạt được lời hứa cung cấp 100 tỷ USD tài chính khí hậu mỗi năm (được đưa ra vào năm 2009), con số mà họ vừa bổ sung thêm 300 triệu USD làm tiền ban đầu cho tổn thất khí hậu và quỹ thiệt hại cho các nước nghèo nhất thế giới.
Có vẻ như việc các nước giàu lờ đi trách nhiệm của mình đã dần trở nên quen thuộc, và rất có thể những lời kêu gọi gây quỹ nhiều hơn sẽ lại được lặp lại trong và sau COP28.
Bất chấp những thắc mắc về việc thực hiện cam kết, đó chỉ là phần nổi của tảng băng hỗn loạn tài chính khí hậu. Và sự kêu gọi về tiền không giải quyết được vấn đề cơ bản của tài chính khí hậu theo cách nó hoạt động ngày nay: Nó thường không giải quyết được nhu cầu thực tế của các nước đang phát triển mà những khoản chuyển giao này lẽ ra phải phục vụ.
Mặt tối của tài chính khí hậu là phần lớn nó đang thay thế viện trợ phát triển truyền thống. Kêu gọi thêm tài trợ khí hậu là quan trọng, nhưng trên thực tế thì một phần lớn kinh phí sẽ được lấy từ ngân sách tài trợ cho các ưu tiên phát triển quan trọng, như y tế, giáo dục, quyền phụ nữ, xây dựng cơ sở hạ tầng và viện trợ nhân đạo.
Nghiên cứu gần đây của CARE International, một tổ chức phi chính phủ toàn cầu tập trung vào nghèo đói và công bằng xã hội. Theo ước tính của tổ chức này, 52% tài chính khí hậu do 23 quốc gia giàu cung cấp từ năm 2011 đến năm 2020 là tiền trước đây được dùng cho ngân sách phát triển, bao gồm các chương trình tập trung vào y tế, giáo dục và quyền phụ nữ.
Nói cách khác, do chính sách khí hậu, các nước nghèo đã chứng kiến sự cắt giảm sâu sắc trong các chương trình viện trợ quan trọng với những lợi ích ngắn hạn và dài hạn đã được chứng minh. Hoặc đơn giản hơn, những khoản viện trợ vốn có cho phát triển đã bị tước bớt để thay bằng cái tên mĩ miều hơn, cho một mục tiêu "cao cả" hơn: "Tài chính để giải quyết vấn đề khí hậu toàn cầu".
Các con số thậm chí còn tệ hơn khi xem xét cam kết chi tiêu phát triển lâu dài là 0,7% tổng thu nhập quốc dân. Nếu coi con số đó là mức tối thiểu cho chi tiêu phát triển và cho rằng tài chính khí hậu nên được ưu tiên hàng đầu thì chỉ 7% tài chính khí hậu của các nước giàu có đủ điều kiện là nguồn tài trợ bổ sung, theo CARE.
Ví dụ: Chính phủ Anh phân loại tài chính khí hậu là viện trợ phát triển, trong đó chính phủ có mục tiêu chi tiêu là 0,5% tổng thu nhập quốc dân. Việc Anh coi mục tiêu này như một mức trần trên thực tế có nghĩa là bất kỳ khoản tài trợ khí hậu nào được tính vào viện trợ đều tự động thay thế nguồn tài trợ cho các dự án phát triển. Các nhà cung cấp tài chính khí hậu hàng đầu khác, như Đức, Pháp và Hoa Kỳ, cũng đã rút nguồn tài chính khí hậu từ chi tiêu phát triển. Theo CARE, Nhật Bản - nhà tài trợ khí hậu lớn nhất thế giới - không cung cấp nguồn tài chính nào ngoài cam kết 0,7% cho viện trợ phát triển.
Việc chuyển hướng viện trợ từ các chương trình dinh dưỡng học đường, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, xây dựng đường sá, các chương trình hỗ trợ nông dân và các mục đích khác đang gây ảnh hưởng lớn đến các nước nghèo. Những kết quả hướng tới các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc còn yếu và một số chỉ số về phát triển kinh tế đã đuối dần trong vài năm qua.
Nhà kinh tế học Charles Kenny lập luận rằng chúng ta có kiến thức để đạt được những mục tiêu này nhưng cần nguồn tài chính lớn hơn đáng kể để làm được điều đó. Tuy nhiên, các quốc gia giàu có đang phớt lờ lời khuyên này, chuyển hướng quỹ phát triển sang các dự án khí hậu thường không giúp ích gì nhiều trong việc thúc đẩy sự phát triển thực sự ở các quốc gia mà họ lẽ ra phải giúp đỡ.
Ngay cả khi các nước giàu không tập trung vào các ngân sách khác, cách họ xác định tài chính khí hậu ít nhất là sáng tạo. Một phân tích cơ sở dữ liệu về các dự án khí hậu của Liên hợp quốc của Reuters cho thấy viện trợ khí hậu đã được sử dụng để tài trợ cho các sân bay, khách sạn, các bộ phim có chủ đề về rừng nhiệt đới, một nhà máy nhiệt điện chạy than và tài chính cho đấu tranh chống... tội phạm.
Khi một chuỗi sô-cô-la của Ý mở cửa hàng ở châu Á, công ty này đã nhận được khoản trợ cấp 4,7 triệu USD mà chính phủ Ý coi là tài trợ cho khí hậu. Theo báo cáo của Reuters, các chuyên gia về khí hậu đồng ý rằng các dự án được xác định “có rất ít hoặc không có mối liên hệ trực tiếp nào với biến đổi khí hậu”. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng hơn 65 tỷ USD đã được chi cho các dự án được báo cáo kém đến mức không thể nói số tiền đó đã được chi vào việc gì hoặc thậm chí là lục địa nơi nó được gửi đến. Các dự án có tổng trị giá hơn 500 tỷ USD đã bị hủy bỏ nhưng vẫn được tính vào các cam kết về khí hậu. Không có quy tắc chính thức thống nhất nào về những gì được coi là tài chính khí hậu và các nước giàu dường như không có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin chi tiết.
Những gì cấu thành nên tài chính khí hậu hầu như không được xác định rõ ràng tại Ngân hàng Thế giới, nhà cung cấp tài chính lớn nhất cho các nước nghèo. Các khoản vay để cải thiện chất lượng giáo viên, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tính minh bạch của thành phố được coi là có đồng lợi ích về khí hậu, nhưng những lợi ích được yêu cầu này không được nêu rõ.
Mặc dù không thể bác bỏ những lợi ích của các khoản viện trợ từ Ngân hàng thế giới, nhưng hầu hết các tài liệu dự án đều thiếu ước tính về mức giảm phát thải khí nhà kính và Ngân hàng Thế giới vẫn chưa có báo cáo tiêu chuẩn về ước tính phát thải. Tuyên bố của chính ngân hàng rằng họ đã tài trợ cho các dự án giúp giảm 194 triệu tấn carbon dioxide mỗi năm chưa được xác minh bởi các nguồn độc lập - và, do việc thiếu tài liệu về phát thải đối với nhiều dự án thực sự có thể không thể kiểm chứng được. Trước những phản ứng về tính thiếu rõ ràng ấy, tháng 6/2023, Ngân hàng Thế giới cho biết họ sẽ tái cơ cấu báo cáo về khí hậu.
Đó chưa phải tất cả, các nước nghèo thường chỉ nhận được phần còn lại của quỹ khí hậu dưới dạng viện trợ, nhưng được chuyển qua các công ty thuộc khu vực tư nhân ở các nước giàu. Một phân tích của Carbon Brief sử dụng dữ liệu từ British Development Tracker đã phát hiện ra rằng 54 công ty tư vấn quản lý, chủ yếu có trụ sở tại Anh và các nước giàu khác, đã nhận được hàng tỷ bảng Anh tài trợ của chính phủ để đưa ra lời khuyên cho các nước nghèo về cách chống lại biến đổi khí hậu.
Ở Nigeria và Ghana, 88% viện trợ khí hậu của Vương quốc Anh từ năm 2010 đến năm 2023 đã được giải ngân thông qua các công ty tư vấn quốc tế. Bất chấp những lo ngại về phí mà các công ty này tính, giá trị thực tế công việc của họ và việc xây dựng năng lực địa phương chưa đủ, chính phủ Anh vẫn tiếp tục dựa vào các chuyên gia tư vấn của các nước giàu để cung cấp viện trợ khí hậu.
Tất cả những điều này xuất phát từ một lỗ hổng thậm chí còn cơ bản hơn trong khái niệm tài chính khí hậu: Tiền đề rằng nếu thế giới giàu có cung cấp thêm tiền cho các nước nghèo thì các nước nghèo có thể phát triển nền kinh tế của họ trên cơ sở năng lượng tái tạo và loại bỏ nhiên liệu hóa thạch.
Điều này nghe có vẻ nhân từ đối với ai đó đang ngồi ở Washington hay Berlin, nhưng nó mâu thuẫn với những gì chúng ta biết về nhu cầu của các nước nghèo và mối quan hệ giữa năng lượng, phát triển, và khả năng phục hồi khí hậu. Bằng cách chỉ tập trung vào quá trình chuyển đổi năng lượng, các chính phủ giàu có đang buộc các nước đang phát triển áp dụng một mô hình tăng trưởng xanh giả định mà thậm chí chưa bao giờ có hiệu quả ở chính quốc gia của họ.