Kiến tạo thể chế thị trường: Đòn bẩy cho kinh tế tư nhân bứt phá

Nghị quyết 68 mở đường cho sự phát triển vượt bậc của kinh tế tư nhân thông qua việc kiến tạo một thể chế thị trường hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hội nhập toàn cầu...

Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là một cột mốc quan trọng, đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong việc huy động sức người sức của, nội lực của người dân Việt Nam cho một kỷ nguyên mới. Những thông điệp, định hướng, giải pháp, tổ chức bộ máy để thực hiện Nghị quyết được xây dựng một cách khoa học, thực tế, chi tiết, cụ thể, kế thừa các bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế trên toàn cầu. Nghị quyết 68 cũng cho thấy tầm quan trọng của việc kiến tạo thể chế thị trường hoạt động hiệu quả, nhất là thị trường yếu tố sản xuất (vốn, công nghệ, lao động, đất đai...) thị trường công nghiệp và thị trường các dịch vụ phát triển kinh doanh.

THỊ TRƯỜNG YẾU TỐ SẢN XUẤT HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ LÀ ĐIỀU KIỆN ĐỦ

So với khu vực doanh nghiệp Nhà nước và khu vực FDI, khu vực kinh tế tư nhân trong nhiều năm qua chưa được quan tâm đúng mức và đã từng gặp phải rất nhiều khó khăn, không chỉ trong việc gia nhập thị trường mà còn trong cả việc rút lui khỏi thị trường. Trong 10 năm qua, trung bình hàng năm có gần 100.000 doanh nghiệp mới được thành lập, nhưng con số doanh nghiệp đang hoạt động mới chỉ tăng thêm được 200.000 đơn vị, đạt loanh quanh 1 triệu doanh nghiệp. Số lượng hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp hầu như không thay đổi vẫn duy trì mức 5 triệu đơn vị. Tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn cũng chỉ nhích thêm chút xíu, từ 4 % lên 6,5 % năm 2023. Điều này cho thấy sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, theo đó, không chỉ là vấn đề thị trường đầu ra, mà còn lại do thị trường các yếu tố đầu vào hoạt động chưa hiệu quả.

Một khi các thị trường này còn bị “bóp méo”, còn nhiều sự can thiệp hành chính, vận hành thiếu hiệu quả và khó tiên đoán thì các doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực còn khó khăn , chi phí sẽ gia tăng, chất lượng các nguồn lực thấp, dẫn đến khó có thể nâng cao năng suất lao động .

TS. Phạm Thị Thu Hằng

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, đồng hành với các chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Đảng ta luôn có chính sách về cải thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2002, sau khi ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, thì năm 2008, Ban chấp hành Trung ương ban hành nghị quyết 21-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cùng ngày 3/6/2017 Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 10 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 11 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nói cách khác trong giai đoạn hiện nay, để đạt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nếu như nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân là điều kiện cần thì một chính sách về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là điều kiện đủ.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA THỊ TRƯỜNG CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT

Khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, Nghị quyết 68 đã chỉ ra những nguyên tắc, công cụ để nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường, thông qua đó, chuyển hướng nguồn lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân mà ở đó phần lớn hiện đang có quy mô nhỏ và cực nhỏ.

Điều quan trọng nhất chính là: khác với rất nhiều biện pháp, công cụ đã thực hiện trước đây, việc hỗ trợ này sẽ được thực hiện theo nguyên tắc thị trường. Điều này sẽ giúp đảm bảo tính công bằng, minh bạch, thực sự khuyến khích các doanh nghiệp có năng lực sẽ tồn tại, đào thải các doanh nghiệp yếu kém và khuyến khích toàn xã hội phát huy nội lực. Bên cạnh đó, không thể không nhận thấy rằng các thị trường yếu tố sản xuất ở Việt Nam vẫn còn kém phát triển, nếu được kiến tạo tốt, thì dư địa để các thị trường này đóng góp cho sự phát triển của đất nước rất nhiều. Có thể điểm qua một vài giải pháp:

Với thị trường đất đai: Chuyển đổi số trong quản lý đất đai và có chính sách để kiểm soát biến động giá đất là một mục tiêu hàng đầu và được yêu cầu hoàn thành ngay trong năm 2025, là một giải pháp rất quyết liệt. Cùng với đó, việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất với chính sách giảm giá thuê trong 5 năm đầu, thực hiện gián tiếp thông qua chủ đầu tư các khu công nghiệp cũng là một bước tiến trong thiết kế chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên cho đến nay, thị trường đất đai vẫn còn bị đánh giá là hoạt động kém hiệu quả: chí phí thuê đất, thời gian, chi phí tiếp cận mặt bằng sản xuất và chuyển đổi từ thị trường sơ cấp lên thị trường thứ cấp là vấn đề nan giải.

Trong rất nhiều trường hợp người có quyền sử dụng đất muốn thay đổi mục đích sử dụng đất cho một hoạt động kinh tế có giá trị cao hơn thường vấp phải chi phí hành chính rất cao và tốn thời gian. Tính hiệu quả của thị trường đất đai, bất động sản còn quyết định đến chất lượng của loại tài sản đảm bảo mà hầu hết các doanh nghiệp khi tiếp cận vốn kinh doanh phải dựa vào hiện nay.

Thị trường vốn, có thể nói hầu hết các công cụ tiên tiến để khơi thông thị trường vốn cho khu vực tư nhân đã được Nghị quyết 68 đưa ra, từ việc khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay dựa trên cơ sở thẩm định phương thức sản xuất kinh doanh... cho đến thử nghiệm có kiểm soát về cho vay ngang hàng, phát triển hệ thống định mức tín nhiệm, huy động các nguồn như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí để phát triển thị trường vốn, nâng cấp thị trường chứng khoán.

Việc phát triển thị trường tài chính có quy mô lớn hơn và đa dạng hơn chắc chắn sẽ tạo nhiều cơ hội cho khu vực tư nhân tiếp cận được nhiều vốn hơn. Nhưng mặt khác những thiết chế hỗ trợ để nâng cao độ bao phủ tài chính và giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng là rất cần thiết vì bản thân các tổ chức này cũng là là doanh nghiệp, cũng luôn luôn phải tuân thủ các quy tắc bảo toàn vốn và an toàn hệ thống tiền tệ.

Trong việc tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao, khu vực kinh tế tư nhân luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các khu vực kinh tế nhà nước và FDI. Trong dài hạn, với mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2030 và 3 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2024 thì việc phát triển một thị trường lao động hiệu quả bao phủ cho 85% tổng số lao động của cả nước là một thách thức không nhỏ. Một lực lượng lao động có kỷ luật, có khả năng làm nhiều loại công việc với trình độ kỹ thuật tay nghề cao là điều cần có ở một thị trường lao động năng động và hiện đại.

Ngoài những giải pháp liên quan đến giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà Nghị quyết 68 đã nêu, thiết nghĩ các giải pháp để cải thiện thông tin thị trường lao động, dự báo xu hướng chuyển dịch lao động, định hướng nghề nghiệp, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa là những vấn đề rất cần được tiếp tục quan tâm.

Đặc biệt cần xây dựng, cập nhật thường xuyên và phổ biến các bộ chuẩn nghề để các trường đại học, cao đẳng, đào tạo nghề xây dựng chương trình đào tạo và các học sinh định hướng nghề nghiệp theo năng lực của mình. Và bên cạnh đó, với việc khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp thì tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô cực nhỏ sẽ tăng đột biến, yêu cầu tính linh hoạt nhất định trong việc thực thi pháp luật lao động tại các cơ sở này.

Thị trường khoa học công nghệ là một thị trường phức tạp, mà ở đó các doanh nghiệp khu vực tư nhân và nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa không dễ dàng tham gia. Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, nếu như ở các doanh nghiệp lớn hoặc FDI đều có các bộ phận R&D thì điều này là vô cùng hiếm thấy ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Con đường gần và nhanh nhất là liên kết, hợp tác với các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm doanh nghiệp, các viện nghiên cứu… Tuy nhiên để đi xa hơn cần xây dựng môi trường trao đổi các phát minh sáng chế và đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách hữu hiệu nhất.

Bên cạnh các giải pháp khuyến khích doanh nghiệp tích lũy, đầu tư vào khoa học công nghệ, thì một cơ chế chia sẻ với các doanh nghiệp những rủi ro trong chi phí ban đầu khi đầu tư vào khoa học công nghệ cũng là hết sức cần thiết. Và một mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm của nhà nước, nơi sẵn sàng coi “thất bại” là tài sản (ở Israel là một ví dụ) rất đáng được quan tâm nghiên cứu và triển khai.

Theo một nghĩa hẹp thị trường công nghiệp còn được gọi là ngành công nghiệp hỗ trợ. Bản chất của mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp hỗ trợ là mối quan hệ bạn hàng, cũng không thể vượt qua các nguyên tắc căn bản của thị trường, theo đó giá cả, chất lượng, quy mô và tính kịp thời mang tính quyết định. Thông thường, người bán đi tìm hoặc tiếp thị người mua, nhưng như từng thấy ngay ở Việt Nam trong nhiều năm qua, đã từng diễn ra nhiều “hội chợ ngược” do JICA hoặc Amcham tổ chức, ở đó chủ yếu là các doanh nghiệp FDI trưng bày sản phẩm công nghiệp hỗ trợ mà họ cần mua.

Mặc dù vậy công nghiệp hóa là một quá trình không thể để cho thị trường tự quyết định hoàn toàn. Nhưng để thị trường công nghiệp này hoạt động hiệu quả thì việc thiết kế và thực thi các chính sách công nghiệp của các cơ quan xúc tiến phải hết sức “tinh tế”: Một mặt những hỗ trợ trực tiếp vào hoạt động kinh doanh thông qua nhiều hình thức ưu đãi khác nhau (chủ yếu là các ưu đãi về thuế, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ tiếp cận vốn, đất đai…) cần được tính toán đến một mức tới hạn, tập trung vào các yếu tố kỹ thuật, nâng cao năng suất, hạn chế việc các doanh nghiệp này trở thành những doanh nghiệp trong ngành công nghiệp “non trẻ mà mãi không lớn". Mặt khác, các doanh nghiệp “cốt lõi” khi đã được hưởng một số chính sách ưu đãi của Nhà nước thì phải có trách nhiệm điều phối, theo dõi và nâng cấp các hoạt động của các nhà máy vệ tinh của mình.

THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ PHÁT TRIỂN KINH DOANH “ MỚI NỔI”

Nếu các doanh nghiệp lớn có đủ nhân sự để thực hiện các công việc như tự đào tạo, marketing, thiết kế, tư vấn, chuyển đổi số, đổi mới công nghệ… thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể tự thực hiện được mà sẽ là hiệu quả hơn nếu như đi thuê, mua dịch vụ từ các đơn vị cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Ở các nền nền kinh tế phát triển, các dịch vụ này rất phổ biến và đa dạng, phục vụ từ doanh nghiệp cực nhỏ chưa bao giờ tiếp cận tín dụng như dịch vụ “định mức tín nhiệm” đến doanh nghiệp lớn như “tìm kiếm nhân sự cao cấp”.

Ở Việt Nam, thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh còn rất sơ khai và non trẻ. Đây sẽ là một thách thức lớn trong việc thực thi các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực tư nhân trong bối cảnh Nhà nước đang thực hiện cải cách bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, thực hiện chuyển giao các chức năng, nội dung công việc không thuộc chức năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức khác (trong đó có doanh nghiệp khu vực tư nhân) đảm nhiệm.

Điều này cũng đồng nghĩa, song song với việc thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh hiệu quả thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước, thì cũng cần có chương trình để tăng cường năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh.

Một thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh hoạt động hiệu quả sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khu vực tư nhân không những tiếp cận được các nguồn lực một cách bình đẳng, mà còn sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả để đạt đến sự công bằng về kết quả so với các khu vực kinh tế khác.

TS. Phạm Thị Thu Hằng, nguyên Tổng thư ký VCCI

Có thể bạn quan tâm