Trong khi các ngân hàng rất cần gọi vốn ngoại thì tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (room) chỉ ở mức tối đa 30% nên nhà đầu tư thiếu mặn mà, còn ngân hàng mất cơ hội tìm được đối tác chiến lược.
Tỷ lệ sở hữu thấp
Trong số 27 ngân hàng niêm yết trên sàn, tính đến thời điểm hiện nay chỉ có 15 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trên 15%. Trong đó, một số ngân hàng đã kín hoặc gần kín tỷ lệ sở hữu vốn ngoại, như ACB, ABBank, VietinBank, Eximbank, MB, MSB, OCB, Techcombank, TPBank, Vietcombank. Ngược lại, vẫn còn những nhà băng sử dụng tỷ lệ này rất thấp như: VietCapital Bank (5%); SeABank (5%)…
Hiện nay, tình trạng chưa sử dụng hết tỷ lệ trần room ngoại đang diễn ra ở hầu hết các ngân hàng. Điển hình, 3 “ông lớn” là Vietcombank, Viettinbank và BIDV có tỷ lệ sở hữu nước ngoài từ 16,7-25,5%. Agribank đang chuẩn bị cổ phần hóa, như vậy tính bình quân tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong 4 ngân hàng nhà nước lớn mới chỉ loanh quanh ở mức 16-17%, vẫn còn dư địa tới 13% trong khu vực này.
Đối với khối ngân hàng thương mại cổ phần, tuy một số nhà băng đã sử dụng gần hết room cho nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ khoảng 27- 28%, song vẫn còn nhiều ngân hàng sử dụng tỷ lệ này rất thấp, song nếu mời chào thì cũng chưa chắc nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia.
Lãnh đạo một ngân hàng thương mại cho biết, ngay cả với ngân hàng còn nhiều không gian hay ít không gian đều đang gặp khó khăn trong quá trình tìm và lựa chọn đối tác chiến lược.
“Quá trình tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phù hợp là rất vất vả và khó khăn. Hơn một năm chúng tôi mới tìm được đối tác, nhưng khi tới được vòng đàm phán lại vướng các điều kiện giới hạn tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Thông thường đối tác mong muốn tỷ lệ sở hữu từ 40% trở lên, trong khi quy định cho phép tối đa là 30%. Do đó hai bên không "gặp" được nhau”, lãnh đạo một ngân hàng cho hay.
Trước đó, tại Hội thảo công bố báo cáo “Nghiên cứu tính cần thiết của việc điều chỉnh tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa tổ chức, các chuyên gia đánh giá, hệ số an toàn vốn (CAR) tại các ngân hàng thương mại vẫn chưa tăng tương ứng tốc độ tăng tài sản và tín dụng.
Mặt khác, áp lực tăng vốn của các ngân hàng vẫn rất lớn khi cơ quan quản lý ngày càng tăng sức ép áp dụng chuẩn Basel II, tiến tới là Basel III. Do đó, nới room để gọi vốn ngoại là giải pháp được nhiều ngân hàng mong đợi.
Cân nhắc điều chỉnh tỷ lệ room ngoại
Như vậy, chính các áp lực này cùng với thực tiễn hoạt động nên các nhà băng này đều mong được nới room vốn ngoại hơn nữa, nhằm dễ bề xoay xở phương án tăng vốn bằng cách chào bán cho cổ đông nước ngoài.
Thực tế, không chỉ có ngân hàng Việt, nhiều tập đoàn tài chính Hàn Quốc tại Việt Nam như Shinhan Bank, Keb Hana, Woori… cũng bày tỏ mong muốn được nới room cho các nhà đầu tư nước ngoài trong buổi gặp gỡ với Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ hồi giữa tháng 12/2021.
Thậm chí, nhiều nhà đầu tư ở các nước như Mỹ, Anh… cũng muốn sở hữu các công ty tài chính, ngân hàng Việt Nam. TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng cho hay, rất nhiều nhà đầu tư ngoại đã nhờ chuyên gia này kết nối với một số ngân hàng trong nước để đàm phán mua bán - sáp nhập (M&A), song khi nghe đến giới hạn 30%, nhiều nhà đầu tư đã thoái lui.
TS. Lê Xuân nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia đánh giá, hiện nay thị trường thuận lợi, mức độ quan tâm của nhà đầu tư ngoại vẫn rất lớn, Chính phủ nên cân nhắc nới room ngoại để các ngân hàng có thể gọi vốn từ nhà đầu tư ngoại, tăng tiềm lực tài chính, tăng quy mô, đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.
Đồng tình với việc xem xét nới room ngoại, song TS. Hiếu cho rằng, nới room ngoại là cần thiết nhưng cần đảm bảo hài hòa lợi ích, nhu cầu của các nhà đầu tư và vai trò quản lý nhà nước. Nếu mở chỉ nên mở với từng loại hình tổ chức tín dụng cụ thể và có lộ trình. Lý do việc nới room ngoại quá lớn trên phạm vi rộng có thể gây khó khăn cho Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô.
TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV đặt câu hỏi "Cần cân nhắc có nhất thiết đề xuất nâng tỷ lệ room cứng từ 30% lên 35% hay không?". Đồng thời cho rằng, cần cân nhắc hài hòa các yếu tố khi xem xét điều chỉnh giới hạn tỷ lệ room ngoại tại các ngân hàng Việt Nam.
Theo chuyên gia này, cần chứng minh tính khả thi như: Khối ngoại có dùng hết tỷ lệ sở hữu không? Bên cạnh đó, cần định hướng đối với tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các tổ chức fintech, công ty chứng khoán, các tổ chức trung gian thanh toán khi cân nhắc việc nới room tại các ngân hàng để đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả tổng thể của hệ thống.