Cụ thể, nợ nước ngoài của Chính phủ được kiểm soát chặt chẽ, còn 19,3% GDP, nợ nước ngoài của Chính phủ bảo lãnh còn 4,4% GDP, nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp còn 22,3% GDP, tỷ lệ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ khoảng 25%, bảo đảm các quy định và thông lệ quốc tế. Như vậy, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia đến cuối năm 2018 so với GDP về cơ bản vẫn được kiểm soát dưới mức trần được Quốc hội cho phép (không quá 50% GDP).
Cũng theo báo cáo này, trong giai đoạn 2011-2017, chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP có xu hướng tăng nhanh, bình quân tăng 16,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP theo giá hiện hành là 13,0%/năm trong cùng giai đoạn.
Việc chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP tăng nhanh trong giai đoạn này chủ yếu do các khoản tự vay, tự trả của DN và TCTD (vay ngắn hạn tăng bình quân 23,5%/năm; vay trung dài hạn tăng 31,7%/năm) bắt nguồn từ nhu cầu vốn tăng cao của các doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển; trong khi đó nợ nước ngoài của Chính phủ tăng 10,4%/năm, nợ Chính phủ bảo lãnh nước ngoài tăng 16,6%/năm. Đến cuối năm 2017, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP ở mức 48,9%, sát với ngưỡng 50% được Quốc hội cho phép.
Tuy nhiên quy mô nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh, bình quân giai đoạn 2011-2018 tăng 15,1%/năm (so với tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa là 12,7% cùng giai đoạn), chủ yếu do nợ nước ngoài của các DN và TCTD vay theo hình thức tự vay, trả tự trong thời gian qua đã tăng rất nhanh để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển. Tốc độ tăng dư nợ nước ngoài tự vay, tự trả bình quân trong giai đoạn 2011-2018 lên tới 24,4%/năm, gấp 1,9 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa, gấp 2,6 lần tốc độ tăng nợ nước ngoài của Chính phủ trong cùng thời kỳ. Theo đó tại một số thời điểm đã gây áp lực lên chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài quốc gia (nợ nước ngoài quốc gia năm 2017 ở mức 48,9% GDP, tiến sát tới giới hạn 50% GDP).
Để bảo đảm an toàn nợ công nói chung và nợ nước ngoài của quốc gia nói riêng, cũng như ổn định kinh tế vĩ mô, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị các bộ, ngành tăng cường điều hành, quản lý nợ theo quy định của pháp luật như Luật quản lý nợ công, các Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội, Chính phủ về nợ công nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế nói chung chứ không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn tự thân của DN, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các DN nói chung. Đặc biệt, các chỉ tiêu về trần nợ công, chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia, nghĩa vụ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ là các chỉ số quan trọng phải bảo đảm theo đúng yêu cầu của Quốc hội.
Trong việc xây dựng kế hoạch nợ nước ngoài quốc gia và khả năng trả nợ trong giai đoạn tới, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện pháp luật quản lý nợ tự vay tự trả của DN, tập trung giám sát tổng nợ, cơ cấu nợ của các khu vực và có tính tới rủi ro đối với từng doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bộ KH&ĐT rà soát, đánh giá tổng thể đầu tư nước ngoài, nhất là dự án lớn trên tổng nguồn vốn đầu tư; tác động của điều kiện vay nước ngoài tới mục tiêu tăng trưởng và thu hút FDI; chủ trì đề xuất khắc phục tình trạng vốn mỏng trong các dự án luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật thuế thu nhập DN.