
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 2 tháng đầu năm tăng 3,27% so với cùng kỳ; Thu ngân sách nhà nước đạt 25,4% dự toán, tăng 25,7% so với cùng kỳ; Kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 12%, xuất siêu ước đạt 1,54 tỷ USD… là những kết quả tích cực của bức tranh kinh tế Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2025.
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Giá thịt lợn tăng do thiếu hụt nguồn cung, giá ăn uống ngoài gia đình, giá nhà ở thuê và giá dịch vụ giao thông tăng theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2 năm 2025 tăng 0,34% so với tháng trước và tăng 2,91% so với cùng kỳ năm 2024.

Bình quân 2 tháng đầu năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm ngoái; lạm phát cơ bản tăng 2,97%. Lạm phát cơ bản trong tháng tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 2,87% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 28/2, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.898,22 USD/ounce, tăng 6,92% so với tháng trước đó. Trong nước, nhu cầu mua sắm vàng lấy may trong ngày Thần Tài sau Tết Nguyên đán tăng làm chỉ số giá vàng của tháng 2 tăng 4,72% so với tháng trước; tăng 32,57% so với cùng kỳ năm 2024.
Tính đến ngày 28/2, chỉ số giá đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 107,31 điểm, giảm 1,16% so với tháng trước do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ giảm và ảnh hưởng từ các chính thuế quan và căng thẳng thương mại từ Mỹ. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 25.548 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng giảm 0,06% so với tháng trước; tăng 3,52% so với cùng kỳ năm ngoái.
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 2 năm 2025 ước tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 12,5% và doanh thu du lịch lữ hành tăng 16,4%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành trong tháng ước đạt 561,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,5% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, doanh thu nhóm hàng vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 15,2%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,0%; hàng may mặc tăng 10,6%; lương thực, thực phẩm tăng 7,3%; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 12,7%; du lịch lữ hành tăng 17,3% do lượng khách quốc tế đến Việt Nam và khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.137,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ tăng 8,4%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,2% (cùng kỳ tăng 5,3%).
HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Trong tháng, cả nước có hơn 10,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký gần 136,4 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký hơn 59,1 nghìn lao động, giảm 4,9% về số doanh nghiệp, tăng 45,0% về vốn đăng ký và giảm 27,5% về số lao động so với tháng trước.

Nếu so với cùng kỳ năm 2024, tăng 34,4% về số doanh nghiệp, gấp hơn 2,1 lần về số vốn đăng ký và giảm 23,3% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 13,5 tỷ đồng, gấp hơn 1,5 lần so với tháng trước và gấp gần 1,6 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh đó, cả nước còn có gần 7,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 69,1% so với tháng trước và tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, cả nước có gần 20,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký hơn 230,4 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 140,7 nghìn lao động, giảm 8,9% về số doanh nghiệp, tăng 4,9% về vốn đăng ký và giảm 22,7% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 2 tháng đầu năm nay đạt 11,1 tỷ đồng, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 2 tháng đầu năm là 709,4 nghìn tỷ đồng, 66,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, cả nước có gần 29,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 53,2% so với cùng kỳ năm 2024), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động trong 2 tháng đầu năm 2025 lên hơn 49,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân một tháng có hơn 24,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
CÁN CÂN XUẤT - NHẬP KHẨU

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trong tháng đạt 63,77 tỷ USD, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 32,6% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 127,07 tỷ USD, tăng 12,0% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu tăng 8,4%; nhập khẩu tăng 15,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 1,47 tỷ USD.
Xuất khẩu hàng hóa:

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng đạt 31,11 tỷ USD, giảm 6,2% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,39 tỷ USD, giảm 12,0%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 22,72 tỷ USD, giảm 3,8%. So với cùng kỳ năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng tăng 25,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 32,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 23,2%.
Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 64,27 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 17,92 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 27,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 46,35 tỷ USD, tăng 6,7%, chiếm 72,1%.
Trong 2 tháng đầu năm 2025, có 12 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 77,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 54,6%).
Nhập khẩu hàng hóa:

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng đạt 32,66 tỷ USD, tăng 8,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 11,87 tỷ USD, tăng 8,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 20,79 tỷ USD, tăng 8,1%. So với cùng kỳ năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng tăng 40%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 49,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 35,1%.
Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 62,8 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 22,8 tỷ USD, tăng 18,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 40,0 tỷ USD, tăng 14,4%.
Trong 2 tháng đầu năm 2025, có 16 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,2% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 2 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 44,5%).
CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP (IIP)

Chỉ số sản xuất ngành chế biến, chế tạo trong tháng tăng 20% so với cùng kỳ trước; sản xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,9%; riêng ngành khai khoáng tăng 0,4%.

Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, IIP ước tính tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ tăng 6,5%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,3% (cùng kỳ tăng 6,6%), đóng góp 7,9 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,3% (cùng kỳ tăng 13,7%), đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,0% (cùng kỳ tăng 1,4%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,4% (cùng kỳ giảm 1,9%), làm giảm 1,0 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 2 tháng đầu năm 2025 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm ngoái: Sản xuất xe có động cơ tăng 53,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 22,5%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 19,8%; sản xuất trang phục tăng 15,3%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa... tăng 12,5%; dệt tăng 12,2%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 12,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 11,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,4%.

Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm so với cùng kỳ năm 2024: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 12,0%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 10,4%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 3,6%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 2,8%; sản xuất thiết bị điện giảm 1,7%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm đầu tháng tăng 1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,4% so với cùng thời điểm của năm 2024. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước không đổi so với tháng trước và tăng 0,3% so với cùng kỳ năm ngoái; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,4% và tăng 3,2%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,3% và tăng 5,2%.
THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu ngân sách Nhà nước 2 tháng đầu năm ước tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2024. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 13,2% so với cùng kỳ đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Thu ngân sách Nhà nước:

Tổng thu ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt 191,9 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 2 tháng đầu năm 2025 đạt 499,8 nghìn tỷ đồng, bằng 25,4% dự toán năm và tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa trong tháng ước đạt 164,3 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025 đạt 454,9 nghìn tỷ đồng, bằng 27,3% dự toán năm và tăng 28,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Thu từ dầu thô trong tháng ước đạt 4,0 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025 đạt 8,1 nghìn tỷ đồng, bằng 15,3% dự toán năm và giảm 17,1% so với cùng kỳ năm 2024.
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu trong tháng ước đạt 23,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025 đạt 36,5 nghìn tỷ đồng, bằng 15,5% dự toán năm và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Chi ngân sách Nhà nước:

Tổng chi ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt 140,6 nghìn tỷ đồng. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 293,8 nghìn tỷ đồng, bằng 11,5% dự toán năm và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong đó, chi thường xuyên 2 tháng đầu năm 2025 đạt 210,0 nghìn tỷ đồng, bằng 13,4% dự toán năm và tăng 15,9% so với cùng kỳ năm ngoái; chi đầu tư phát triển ước đạt 60,4 nghìn tỷ đồng, bằng 7,6% và tăng 13,7%; chi trả nợ lãi 23,3 nghìn tỷ đồng, bằng 21,1% và giảm 7,1%.
VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HÀNG HÓA
Hoạt động vận tải tháng 2 năm 2025 tiếp tục sôi động đáp ứng nhu cầu đi lại, du xuân của người dân trong nước cũng như khách quốc tế đến Việt Nam, phục vụ sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa.

So với cùng kỳ năm 2024, vận tải hành khách trong tháng tăng 12,2% về vận chuyển và tăng 12,7% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 16% về vận chuyển và tăng 19,1% về luân chuyển. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, vận chuyển hành khách tăng 13,8% và luân chuyển tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2024; vận chuyển hàng hóa tăng 14,5% và luân chuyển tăng 11,8%.
Vận tải hành khách trong tháng ước đạt 464,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 3,6% so với tháng trước và luân chuyển 26,3 tỷ lượt khách/km, tăng 1,9%. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, vận tải hành khách ước đạt 912,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái và luân chuyển đạt 52,1 tỷ lượt khách/km, tăng 16,2%.
Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 909,0 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2024 và 40,9 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 16,3%; vận tải ngoài nước ước đạt 3,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 15,3% và 11,2 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 15,8%.
Vận tải hàng hóa trong tháng ước đạt 234,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 1,4% so với tháng trước và luân chuyển 48,9 tỷ tấn/km, giảm 0,6%. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, vận tải hàng hóa ước đạt 471,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2024 và luân chuyển 98,1 tỷ tấn/km, tăng 11,8%.
Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 463,7 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,7% và 59,5 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái; vận tải ngoài nước ước đạt 8,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 5,8% và 38,6 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 17,0%.
KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM

Trong tháng 2 năm 2025, khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt gần 1,9 triệu lượt người, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 3,96 triệu lượt người, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, khách đến bằng đường hàng không đạt gần 3,4 triệu lượt người, chiếm 85,7% lượng khách quốc tế đến và tăng 32,5% so với cùng kỳ năm 2024; bằng đường bộ đạt 467,2 nghìn lượt người, chiếm 11,8% và tăng 20,2%; bằng đường biển đạt 99,4 nghìn lượt người, chiếm 2,5% và tăng 9,6%.
VỐN FDI ĐĂNG KÝ CẤP MỚI
Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 8,5% kế hoạch năm, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2024. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 2,95 tỷ USD tăng 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt 37,9 nghìn tỷ đồng, tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2024 bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 20,1%; vốn địa phương quản lý 32,4 nghìn tỷ đồng, tăng 39,8%. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 73,2 nghìn tỷ đồng, bằng 8,5% kế hoạch năm và tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ bằng 7,7% và tăng 2,6%).
Trong số 44 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 679,8 triệu USD, chiếm 31% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Singapore 450,7 triệu USD, chiếm 20,6%; Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) 253,3 triệu USD, chiếm 11,5%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 163,7 triệu USD, chiếm 7,5%; Mỹ 107,9 triệu USD, chiếm 4,9%; Nhật Bản 104,1 triệu USD, chiếm 4,8%.

7 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới là Đồng Nai, Hải Phòng, Tây Ninh, Bắc Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nam và Thái Bình.