Thanh tra Chính phủ đã ban hành Kết luận thanh tra số 276/KL-TTCP của Thanh tra Chính phủ về việc chấp hành chính sách pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và sử dụng nguồn tiền từ trái phiếu doanh nghiệp. Thanh tra Chính phủ đã chỉ ra nhiều sai phạm trong việc phát hành trái phiếu của Novaland, các công ty con và các doanh nghiệp liên quan.
Theo tài liệu, báo cáo của 18 tổ chức phát hành gồm Tập đoàn No Va (Novaland, mã chứng khoán: NVL) và 17 công ty con, có 1/18 tổ chức phát hành thực hiện chưa đúng quy định về điều kiện phát hành, 7/18 tổ chức phát hành thực hiện chưa đúng quy định về hồ sơ phát hành.
DÒNG TIỀN TRÁI PHIẾU BỊ CHUYỂN HÓA THÀNH VỐN CÁ NHÂN
Tại Tập đoàn No Va đã phát hành và sử dụng 1.500 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu NVL2020-01 (năm 2020) để tăng vốn vào công ty con Công ty TNHH Bất động sản Khải Hưng. Sau đó, Khải Hưng dùng số tiền này để nhận chuyển nhượng phần vốn điều lệ của bà Võ Thị Kim Khoa tại Công ty TNHH Bất động sản Thế Kỷ Hoàng Kim, nhằm sở hữu 99,999% vốn điều lệ (tương đương 1.843,973 tỷ đồng).
Kiểm tra dòng tiền cho thấy, ngày 23/6/2020 bà Khoa nhận chuyển nhượng 269,973 tỷ đồng phần vốn góp tại Thế Kỷ Hoàng Kim từ Bất động sản Bình An, đồng thời góp thêm 1.574 tỷ đồng, toàn bộ số tiền do Công ty Cổ phần Kinh doanh Nhà Nova chuyển. Cùng ngày, Thế Kỷ Hoàng Kim chuyển 1.506,237 tỷ đồng qua nhiều công ty, cá nhân trung gian rồi quay lại Kinh doanh Nhà Nova, thể hiện vốn góp của bà Khoa không tồn tại thực tế.
Từ 3–17/7/2020, Novaland chuyển 1.500 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu cho Khải Hưng; sau đó Khải Hưng chuyển 1.900 tỷ đồng (1.500 tỷ từ trái phiếu và 400 tỷ nguồn khác) cho bà Khoa để thanh toán phần vốn nêu trên. Bà Khoa tiếp tục chuyển 1.500 tỷ đồng qua nhiều trung gian, cuối cùng trở lại Kinh doanh Nhà Nova.
Tại Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản Unity, tháng 7/2021 doanh nghiệp phát hành 584 tỷ đồng trái phiếu để nhận chuyển nhượng phần vốn điều lệ của bà Khoa tại Công ty TNHH Bất động sản Đà Lạt Lake, nơi bà sở hữu 99,99% vốn (tương đương 729,980 tỷ đồng). Trước đó, bà Khoa nhận 643,985 tỷ đồng từ Kinh doanh Nhà Nova (23–25/12/2020) để góp thêm vào Đà Lạt Lake; doanh nghiệp này sau đó chuyển đi 644 tỷ đồng trong cùng ngày. Đến 15/10/2021, sau khi nhận 584 tỷ đồng từ Unity, bà Khoa gửi tiền tiết kiệm, rồi tất toán ngày 13/5/2022 và chuyển toàn bộ 584 tỷ đồng cho Kinh doanh Nhà Nova.
Tại Công ty TNHH Thành phố Aqua, doanh nghiệp phát hành 4.600 tỷ đồng trái phiếu, sử dụng 2.600 tỷ đồng (năm 2020) để nhận chuyển nhượng vốn của ông Lê Thanh Liêm tại Công ty Phúc Hoa, nơi ông sở hữu 99,999% vốn (4.299,962 tỷ đồng). Tiếp đó, 2.000 tỷ đồng từ đợt phát hành năm 2021 được dùng để nhận chuyển nhượng phần vốn của ông Liêm tại Công ty Green Land, trị giá 2.858,790 tỷ đồng.
Để có vốn tại Phúc Hoa, ông Liêm đã nhận chuyển nhượng 224,998 tỷ đồng phần vốn từ ông Bùi Trọng Nghĩa và góp thêm 4.074,964 tỷ đồng (do Kinh doanh Nhà Nova chuyển). Sau khi nhận 2.600 tỷ đồng trái phiếu từ Aqua, ông Liêm chuyển toàn bộ về Kinh doanh Nhà Nova.
Tương tự, với Green Land, ông Liêm nhận chuyển nhượng 99,990 tỷ đồng phần vốn từ bà Nguyễn Anh Thư và góp thêm 2.778,695 tỷ đồng (An Khang chuyển 50 tỷ, Kinh doanh Nhà Nova chuyển 2.828,675 tỷ). Cùng ngày, Green Land chuyển 2.860 tỷ đồng qua Bất động sản Đại Phát và các trung gian khác trước khi quay lại Kinh doanh Nhà Nova. Số 2.000 tỷ đồng trái phiếu từ Aqua, sau khi ông Liêm nhận, cũng được chuyển về Nova.
Tại Công ty Cổ phần Dịch vụ Đầu tư Lucky House, tháng 8/2020 doanh nghiệp phát hành 3 mã trái phiếu trị giá 600 tỷ đồng, dùng 400 tỷ đồng để thanh toán cho giao dịch nhận chuyển nhượng phần vốn điều lệ của bà Khoa tại Công ty An Huy, nơi bà sở hữu 99,99% vốn (879,912 tỷ đồng).
Bà Khoa trước đó nhận 17,361 tỷ đồng phần vốn từ ông Bùi Trọng Nghĩa và góp thêm 856,802 tỷ đồng, toàn bộ do Kinh doanh Nhà Nova và Khải Hưng chuyển (20/7/2020). Phần lớn số vốn này sau đó được chuyển đi trong cùng ngày qua các trung gian về Kinh doanh Nhà Nova. Khi nhận 400 tỷ đồng từ Lucky House (22/9/2020), bà Khoa cũng chuyển toàn bộ về Nova.
Từ các trường hợp trên, có thể thấy Novaland và ba công ty thành viên (Unity, Thành phố Aqua, Lucky House) đã phát hành trái phiếu để mua phần vốn điều lệ của các cá nhân tại doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, việc hình thành vốn điều lệ của các cá nhân có dấu hiệu bất thường: giá trị tăng vốn lớn, nguồn tiền góp đều do Kinh doanh Nhà Nova hoặc công ty liên quan chuyển, và dòng tiền được rút đi ngay trong ngày góp vốn.
Thanh tra Chính phủ nhận định, vốn điều lệ của các cá nhân thực tế không tồn tại, trong khi tiền trái phiếu lại được sử dụng để nhận chuyển nhượng vốn điều lệ. Sau khi nhận tiền trái phiếu, các cá nhân đều chuyển lại cho Kinh doanh Nhà Nova sử dụng, với tổng giá trị khoảng 7.084 tỷ đồng.
Do giới hạn phạm vi thanh tra, cơ quan chức năng chưa xác minh toàn bộ các giao dịch trung gian. Tuy nhiên, kết quả cho thấy các công ty thuộc Tập đoàn No Va có phương thức sử dụng tiền trái phiếu giống nhau, phối hợp với các cá nhân như bà Khoa, ông Liêm và các pháp nhân liên quan để hình thành vốn điều lệ giả tạo, rồi chuyển dòng tiền trái phiếu quay lại cho Kinh doanh Nhà Nova sử dụng.
TIỀN TRÁI PHIẾU “CHẢY” SAI HƯỚNG TRONG CÁC DỰ ÁN HỢP TÁC ĐẦU TƯ
Đối với sử dụng tiền trái phiếu để hợp tác, đầu tư, theo tài liệu, báo cáo của Tập đoàn No Va phát hành gói 4 mã trái phiếu (NVLH2122001, NVLH2124002, NVLH2122008, NVLH2123011) có giá trị phát hành 2.050 tỷ đồng, sử dụng tiền trái phiếu để góp vốn, hợp tác với Bất động sản An Khang đầu tư phát triển dự án Khu đô thị Cù lao Phước Hưng, tỉnh Đồng Nai bằng hợp đồng nguyên tắc hợp tác kinh doanh với giá trị 2.005,7 tỷ đồng.
Qua kiểm tra cho thấy việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu có các dấu hiệu vi phạm. Việc ký hợp đồng nguyên tắc hợp tác kinh doanh để thực hiện huy động khoản tiền trên từ phát hành trái phiếu dưới hình thức là khoản bảo đảm cho hợp tác phát triển dự án là vi phạm khoản 2 Điều 69 Luật Nhà ở năm 2014 và điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 19 Nghị định 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ hướng dẫn Luật Nhà ở.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ về trách nhiệm của tổ chức là phải “quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, tại hợp đồng nguyên tắc hợp tác kinh doanh, Novaland đã ủy quyền cho An Khang toàn quyền quyết định việc sử dụng tiền trái phiếu, bên cạnh đó, Novaland cũng không cung cấp được các căn cứ để chứng minh trách nhiệm quản lý, giám sát được mục đích sử dụng vốn trái phiếu theo quy định trên.
Công ty An Khang đã sử dụng số tiền từ trái phiếu chuyển cho nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau, có dấu hiệu không đúng mục đích (không đưa vào dự án) với giá trị lớn, trong thời gian dài.
Ngoài ra, Novaland không thu xếp được nguồn thanh toán gốc, lãi đối với trái phiếu mã NVLH2123011, với tổng tổng số tiền quá hạn thanh toán với nhà đầu tư tại thời điểm 30/6/2023 là 41,655 tỷ đồng (nợ lãi) và thời điểm 31/5/2024 là 1.088,246 tỷ đồng; trong đó dư nợ gốc quá hạn là 882,491 tỷ đồng và dư nợ lãi quá hạn là 205,755 tỷ đồng.
Điều này, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP: "Thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn và đảm bảo việc thực hiện các quyền kèm theo (nếu có) cho chủ sở hữu trái phiếu”.
Vi phạm của NVL và Công ty An Khang với giá trị lớn, trong thời gian dài theo quy định của pháp luật về trái phiếu; thời điểm thanh tra chưa trả được nợ gốc, lãi trái phiếu, tiềm ẩn rủi ro cho trái chủ.
Tại Công ty TNHH Bất động sản Gia Đức đã phát hành 1.300 tỷ đồng trái phiếu vào năm 2021 và sử dụng tiền trái phiếu để đầu tư 293 bất động sản nghỉ dưỡng tại dự án Nova World Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (nay là tỉnh Lâm Đồng) thông qua hình thức đặt cọc cho CTCP Kinh doanh Nhà Nova bằng văn bản thoả thuận.
Bất động sản Gia Đức và Kinh doanh Nhà Nova ký Văn bản thoả thuận số NWP293/2021/VBTT/NVH-GĐ ngày 15/12/2021 về việc đặt cọc mua 293 căn hộ tại dự án Nova World Phan Thiết do Công ty TNHH Delta - Valley Bình Thuận làm chủ đầu tư trong khi dự án chưa có đủ điều kiện pháp lý để được bán theo quy định tại Khoản 2 Điều 55 Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2014.
Trên cơ sở Văn bản thoả thuận này, Bất động sản Gia Đức chuyển tiền trái phiếu cho Kinh doanh Nhà Nova sử dụng, Kinh doanh Nhà Nova chuyển cho nhiều tổ chức không rõ mục đích; Bất động sản Gia Đức và Kinh doanh Nhà Nova thiết lập thoả thuận đặt cọc để sử dụng tiền trái phiếu với giá trị lớn, trong thời gian dài.
Bên cạnh đó, Bất động sản Gia Đức không cung cấp được các tài liệu, hồ sơ và căn cứ chứng minh việc thực hiện trách nhiệm của tổ chức phát hành trong “quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo quy định của pháp luật” theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP.
Tại thời điểm thanh tra 30/6/2023, Bất động sản Gia Đức nợ quá hạn lãi trái phiếu 14 tỷ đồng (có 3 lần chậm trả lãi trái phiếu cho nhà đầu tư trong năm 2023), công ty tiếp tục chậm trả lãi trái phiếu 2 lần trong 6 tháng đầu năm 2024 vi phạm trách nhiệm “Thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn” quy định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP.
Theo các báo cáo tài chính do Bất động sản Gia Đức cung cấp thấy, trước và sau khi phát hành trái phiếu, công ty không có doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính rất xấu; trường hợp không thu xếp được nguồn thu hợp pháp khác, Công ty Gia Đức có rủi ro trong việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu cho trái chủ.
DÒNG TIỀN TRÁI PHIẾU “LẠC HƯỚNG” TRONG CHUỖI HỢP TÁC ĐẦU TƯ CỦA NOVALAND
Về trách nhiệm quản lý, sử dụng tiền từ trái phiếu, kết quả kiểm tra cho thấy 6/18 tổ chức phát hành chưa thực hiện đúng quy định về quản lý tiền từ trái phiếu và 1/18 tổ chức phát hành sử dụng tiền trái phiếu chưa đúng mục đích phát hành.
Cụ thể, 6/18 tổ chức chưa thực hiện đúng trách nhiệm “quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo đúng mục đích theo quy định tại Nghị định này và phương án phát hành trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt” tại khoản 2 Điều 35 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP; “quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo quy định của pháp luật” tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP.
Đầu tiên tại Novalnad phát hành trái phiếu để tăng vốn góp vào 2 công ty con, gồm 1.500 tỷ đồng trái phiếu (7 mã trái phiếu gói NVL2020-01 năm 2020) tăng vốn góp vào Bất động sản Tân Kim Yến và 2.500 tỷ đồng trái phiếu (8 mã trái phiếu gói NVL2020-03 năm 2020) tăng vốn góp vào Địa ốc Nova Sài Gòn Royal.
Sau đó các công ty con này đã ký hợp đồng với các pháp nhân khác (Công ty Cổ phần Huỳnh Gia Huy, Công ty TNHH Delta - Valley Bình Thuận) hợp tác kinh doanh. Sau khi nhận được tiền trái phiếu từ các công ty con này, các công ty nhận hợp tác sử dụng tiền có dấu hiệu không đúng nội dung, mục đích quy định tại hợp đồng hợp tác. Bên cạnh đó, Novaland không cung cấp được các tài liệu chứng minh trách nhiệm quản lý tiền từ trái phiếu theo quy định tại Điều 35 Nghị định 163/2018/NĐ-CP.
Tập đoàn No Va sử dụng 1.500 tỷ đồng từ phát hành 6 mã trái phiếu NVL2020-02 năm 2020 để hợp tác kinh doanh với Công ty Cổ phần Mũi Yến nhưng sau khi chuyển tiền cho Mũi Yến, Novaland đã không thực hiện trách nhiệm “quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo quy định của pháp luật” theo quy định tại khoản 2 Điều 35 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP dẫn đến tiền thu được từ phát hành trái phiếu có dấu hiệu không được sử dụng vào đúng mục đích theo phương án phát hành mà đã được chuyển qua nhiều công ty khác nhau và chuyển trở lại cho NVL.
Tiếp đến, Bất động sản Gia Phú phát hành và sử dụng tiền 250 tỷ đồng từ trái phiếu mã GPRCH2123001 (ngày phát hành: 13/8/2021) để tăng vốn góp vào Công ty Cổ phần Địa ốc Thành Nhơn nhưng không thực hiện trách nhiệm quản lý vốn từ phát hành trái phiếu theo quy định, dẫn đến việc tiền trái phiếu được sử dụng có dấu hiệu không đúng mục đích, nội dung hợp tác phát triển dự án.
Tương tự, 4 tổ chức phát hành khác gồm Công ty Cổ phần Kinh doanh Bất động sản Thái Bình; Công ty TNHH Nova Lucky Palace; Công ty Cổ phần Cao ốc Phương Đông; Công ty Cổ phần Phát triển Đất Việt đãsử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu để thanh toán (toàn bộ hoặc một phần giá trị) các hợp đồng hợp tác kinh doanh/hợp đồng nguyên tắc hợp tác kinh doanh/hợp đồng đặt cọc hợp tác kinh doanh.
Tại các hợp đồng này quy định tổ chức phát hành có quyền uỷ quyền cho bên nhận hợp tác quyết định việc sử dụng phần vốn hợp tác từ trái phiếu trong việc đầu tư, triển khai, kinh doanh dự án nêu tại hợp đồng.
Sau khi tiền trái phiếu đến tài khoản của bên nhận hợp tác thì được bên nhận hợp tác thực hiện các giao dịch chuyển tiền cho các tổ chức, cá nhân trung gian khác nhau có dấu hiệu sai mục đích hợp tác. Bên cạnh đó, các tổ chức phát hành không cung cấp được hồ sơ, tài liệu về thực hiện trách nhiệm quản lý nguồn tiền trái phiếu theo quy định.
Còn Công ty Cổ phần Nova Final Solution phát hành 1.350 tỷ đồng trái phiếu năm 2020 có mục đích để thực hiện mua vốn góp tại Công ty TNHH Bất động sản Đăng Khánh thông qua hình thức nhận chuyển nhượng phần vốn góp của các cá nhân là thành viên góp vốn của Bất động sản Đăng Khánh.
Nova Final Solution đã sử dụng nguồn vốn trái phiếu để tăng vốn góp trực tiếp vào Bất động sản Đăng Khánh mà không nhận chuyển nhượng phần vốn góp của các cá nhân như phương án ban đầu là chưa thực hiện đầy đủ mục đích theo phương án phát hành được quy định.