SSI Retail Research vừa đưa ra một số cái nhìn tổng quan về thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong 11 tháng năm 2019.
Theo đó, trong tháng 11/2019, có 24.199 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành đưa tổng lượng phát hành 11 tháng đầu năm là 206.680 tỷ đồng bao gồm cả phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Con số này chưa bao gồm các các đợt phát hành riêng lẻ trong 3 tháng đầu năm 2019 do chưa được công bố chi tiết. Tuy nhiên, căn cứ dữ liệu tổng hợp kết quả phát hành riêng lẻ lũy kế 10 tháng của HNX, SSI Retail Research ước tính lượng phát hành riêng lẻ 3 tháng đầu năm 2019 là khoảng 30.000 tỷ đồng.
Như vậy, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp thực tế phát hành 11 tháng đầu năm là khoảng 237.000 tỷ đồng, cao hơn 5,8% so với tổng lượng phát hành trong cả năm 2018.
Kỳ hạn và lãi suất bình quân toàn thị trường là 3,71 năm và 8,7%/năm. Trong đó nhóm có kỳ hạn dài nhất là nhóm phát triển hạ tầng (5,14 năm); nhóm bất động sản có lãi suất bình quân 10,24%, cao hơn hẳn các nhóm ngân hàng, định chế tài chính, phát triển hạ tầng nhưng vẫn thấp hơn nhóm các doanh nghiệp khác (10,49%) do ảnh hưởng của lô phát hành 1.402 tỷ đồng kỳ hạn 5 năm, lãi suất 20%/năm của CTCP Đầu tư Thương mại Hồng Hoàng.
Trong tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài mua 100 tỷ đồng trái phiếu 12 tháng của công ty chứng khoán KIS Việt Nam và 456,7 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi kỳ hạn 4 năm của CTCP Nhựa Đồng Nai. Tổng lượng mua sơ cấp của NĐTNN trong 11 tháng đầu năm 2019 là gần 14 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 7% khối lượng phát hành.
Sau tháng 10 chững lại, tháng 11 các NHTM lại đẩy mạnh phát hành trái phiếu với 14.149 tỷ đồng trái phiếu mới, đưa số lũy kế phát hành của các NHTM trong 11 tháng lên mức 94.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng cao nhất (45,5%) trong các nhóm ngành tham gia phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Riêng BIDV phát hành 8.618 tỷ đồng, trong đó có 2.800 tỷ đồng là trái phiếu phát hành ra công chúng, đây là đợt phát hành ra công chúng lần thứ 2 của ngân hàng này sau đợt phát hành 3.000 tỷ vào tháng 9/2019.
Từ đầu năm đến nay, BIDV đã phát hành tổng cộng 12.817 tỷ đồng trái phiếu có kỳ hạn từ 6 đến 10 năm và đủ tiêu chuẩn để tính vào vốn cấp 2 của ngân hàng này, toàn bộ đều có lãi suất thả nổi với biên độ cộng thêm từ 1,1-1,4%/năm so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng.
Ngoài BIDV, trong tháng qua, MB cũng phát hành thêm 80 tỷ đồng kỳ hạn 10 năm để tăng vốn cấp 2; các ngân hàng còn lại gồm VPBank, VIB, LienVietPostbank, SHB, HDBank, SeaBank chỉ phát hành các kỳ hạn 2-3 năm với lãi suất cố định 6,3-7,0%/năm.
Các doanh nghiệp bất động sản phát hành 6.952 tỷ đồng trong tháng 11, và tổng cộng 71.312 tỷ đồng trong 11 tháng 2019, chiếm 34,5% tổng lượng phát hành toàn thị trường. Lô phát hành lớn nhất trong tháng là 2.029 tỷ đồng của CTCP Tiếp vận và BĐS Tân Liên Phát Tân Cảng với kỳ hạn 12 tháng và do 1 định chế tài chính mua toàn bộ.
Techcombank là tổ chức quản lý tài sản đảm bảo, tài khoản tiền trái phiếu, lãi suất các kỳ thả nổi của trái phiếu cũng được tham chiếu theo lãi suất cho vay ngắn hạn của Techcombank, tài sản đảm bảo là cổ phần của Vingroup - một đối tác lớn của Techcombank.
Các lô phát hành trái phiếu bất động sản lớn khác gồm: 1.500 tỷ đồng trái phiếu 5 năm của CTCP Du lịch Thung lũng Nữ Hoàng, 1.135 tỷ đồng trái phiếu 18 tháng của CTCP Veracity- chủ đầu tư dự án Summit Building (Hà Nội); 570 tỷ đồng trái phiếu 2 năm của Vinametric - chủ khách sạn Saigon Prince Hotel; 500 tỷ trái phiếu kèm chứng quyền của Tập đoàn Hà Đô; 500 tỷ đồng trái phiếu 3 năm của Hưng Thịnh Land;...
Có thể nói, năm 2019, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã bước vào thời kỳ “bùng nổ”. Tăng trưởng tín dụng ngày càng bị kiểm soát chặt chẽ, cho vay trung dài hạn bị siết chặt, vì vậy huy động vốn thông qua kênh ngân hàng giảm. Để đáp ứng nhu cầu về vốn, các doanh nghiệp chuyển hướng sang phát hành trái phiếu. Hơn nữa, quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay rất thông thoáng. Chỉ cần doanh nghiệp có báo cáo tài chính đã kiểm toán là có quyền phát hành trái phiếu.
Tuy nhiên, “tăng nóng” thường ẩn chứa nhiều rủi ro. Theo các chuyên gia kinh tế, đáng lo nhất là độ minh bạch thông tin của nhiều doanh nghiệp Việt Nam không cao. Vì vậy nhà đầu tư có thể đối mặt với những rủi ro khi mua phải trái phiếu của những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả.