
Việt Nam đang nổi lên như một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, thu hút sự mở rộng mạnh mẽ của các tập đoàn bán lẻ Nhật Bản. Sự kết hợp giữa quy mô thị trường tăng trưởng nhanh và lợi thế về chất lượng, dịch vụ của thương hiệu Nhật đã tạo ra một quỹ đạo phát triển bền vững. Những “ông lớn” Nhật luôn thận trọng trong hoạt động đầu tư lại tin tưởng, lựa chọn Việt Nam như một bến đỗ an toàn gửi gắm nguồn lực.
GIAI ĐOẠN VÀNG
Việt Nam đang bước vào giai đoạn “vàng” cho hoạt động bán lẻ hiện đại: dân số trẻ, tầng lớp trung lưu mở rộng nhanh, tốc độ đô thị hóa cao, trong khi tỷ lệ kênh bán lẻ hiện đại vẫn còn thấp so với khu vực.
Quy mô bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tại Việt Nam đang tăng trưởng nhanh và ổn định qua các năm 2022 tăng 19,8%, 2023 tăng 9,6%, 2024 tăng 9,0%. Đây là chuỗi tăng trưởng cao nhờ nhu cầu nội địa phục hồi sau Covid, du lịch dịch vụ mở cửa trở lại và các kênh bán lẻ hiện đại được mở rộng.
Theo báo cáo Modor Intelligence, thị trường bán lẻ Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ với quy mô dự kiến đạt 309 tỷ USD vào năm 2025 và khoảng 546 tỷ USD vào năm 2030. Trong đó, bán lẻ hiện đại chiếm 12–15% thị phần, tạo dư địa lớn cho các doanh nghiệp mở rộng và chuyển đổi mô hình kinh doanh
"Việt Nam đang chứng kiến quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và nhu cầu của người tiêu dùng trẻ tuổi ở thành thị ngày càng tăng. Điều này thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các kênh bán lẻ hiện đại như siêu thị, cửa hàng bách hóa hay sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử. Thực tế, có thể thấy rõ qua sự xuất hiện của các siêu thị mini, siêu thị cỡ nhỏ và vừa, nhắm vào nhu cầu mua sắm, phù hợp với nhịp sống bận rộn của người dân thành thị", báo cáo của Modor Intelligence cho hay.
Điều đó thể hiện rất rõ qua quá trình đô thị hóa cũng mở ra các địa điểm chiến lược mới. Các trung tâm kinh tế lớn như TP.HCM, Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ và Quảng Ninh đều ghi nhận mức tăng trưởng ổn định, phản ánh xu hướng tiêu dùng vững chắc của người dân. Cụ thể, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2025 của một số địa phương như: Quảng Ninh tăng 10,0%; Hải Phòng và Đà Nẵng cùng tăng 8,2%; TP.HCM tăng 7,9%; Cần Thơ tăng 7,6%; Hà Nội tăng 7,3%... so với cùng kỳ năm trước.

Với quy mô thị trường đang mở rộng, cơ cấu kênh bán lẻ chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình hiện đại/đa kênh, cùng với nhóm người tiêu dùng trẻ tuổi ưa chuộng các yếu tố "chất lượng - an toàn - tin cậy", thị trường Việt Nam đang tạo nên một nền tảng lý tưởng để củng cố và mở rộng vị thế của các nhà bán lẻ Nhật Bản.
Chính bức tranh đó khiến các nhà bán lẻ Nhật Bản từ các tập đoàn điều hành trung tâm thương mại đến chuỗi cửa hàng tiện lợi và thương hiệu lifestyle đồng loạt đẩy mạnh đầu tư, mở rộng hiện diện tại Việt Nam. Các xu hướng cho thấy cách họ đang mở rộng hoạt động thông qua các hình thức đa dạng, định vị “chất lượng Nhật Bản”, chuyển dịch danh mục sang làm đẹp/sức khỏe và tích hợp O2O (trực tuyến kết hợp trực tiếp) nhanh hơn tăng trải nghiệm mua sắm liền mạch cho khách hàng.
NHỮNG “GÃ KHỔNG LỒ” NHẬT TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT
AEON là gương mặt tiêu biểu cho làn sóng đầu tư Nhật vào bán lẻ Việt Nam. Tổng vốn đầu tư công bố của tập đoàn đến nay đã đạt khoảng 1,18–1,5 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường chiến lược lớn nhất ngoài Nhật Bản. Tính đến 2025, AEON vận hành 8–12 trung tâm thương mại AEON Mall cùng hàng loạt siêu thị MaxValu, cửa hàng thực phẩm và chuỗi tiện lợi Ministop.
Báo cáo tài chính FY2024 cho thấy doanh thu AEON Việt Nam đạt khoảng 17,3 tỷ yên (tương đương 121 triệu USD) và lợi nhuận hoạt động đạt 4,2 tỷ yên (khoảng 29,4 triệu USD), tăng 8,6% so với năm trước. Chiến lược của AEON là vận hành đa định dạng, từ đại siêu thị đến cửa hàng tiện lợi tạo lợi thế cộng hưởng giữa trung tâm thương mại và hệ thống bán lẻ hàng ngày.
Dù đối mặt thách thức về vốn đầu tư, chi phí mặt bằng và cạnh tranh từ các chuỗi Hàn, Thái, AEON vẫn kiên định mở rộng ra các đô thị cấp 2 như Hải Dương, Cần Thơ, Quảng Ninh nhằm giữ vị thế “người tiên phong”.

Gia nhập Việt Nam từ năm 2019, UNIQLO hiện có khoảng 20 cửa hàng, tập trung tại các thành phố lớn. Tập đoàn mẹ của UNIQLO ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận ổn định trong năm tài chính 2025, với mảng Đông Nam Á đóng góp đáng kể. UNIQLO áp dụng mô hình O2O (Online to Offline), kết hợp cửa hàng vật lý và thương mại điện tử, đồng thời tận dụng chuỗi cung ứng tại chỗ khi nhiều sản phẩm được gia công ngay tại Việt Nam.
Điều này giúp giảm chi phí logistics và duy trì biên lợi nhuận cạnh tranh. Tuy vậy, doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với sự thay đổi nhanh của xu hướng thời trang và cạnh tranh khốc liệt từ các thương hiệu giá rẻ trên kênh online.
MUJI chính thức hiện diện tại Việt Nam từ năm 2020, hiện có khoảng 17 cửa hàng (theo công bố 2025). Thương hiệu này không chỉ bán sản phẩm mà còn bán trải nghiệm – triết lý tối giản, bền vững, chú trọng chất lượng và thẩm mỹ. MUJI cũng đang nội địa hóa chuỗi cung ứng bằng cách tận dụng nguồn nguyên liệu gỗ và vật liệu sản xuất trong nước, giúp tối ưu chi phí và phù hợp với định hướng “xanh hóa” của thị trường Việt Nam.
Thông qua liên doanh với BRG Group, Sumitomo phát triển chuỗi FujiMart, hệ thống siêu thị thực phẩm tươi chuẩn Nhật. Theo báo cáo của USDA và Inside Retail Asia, FujiMart đã mở khoảng 11- 19 cửa hàng tính đến giữa 2025, riêng năm 2024 mở mới 10 điểm bán, với mục tiêu đạt 50 cửa hàng vào năm 2028.
FujiMart tập trung vào trải nghiệm “fresh food & deli”, nơi người tiêu dùng có thể mua thực phẩm tươi và sản phẩm chế biến tại chỗ. Liên doanh với đối tác địa phương giúp Sumitomo vượt qua rào cản pháp lý, tiếp cận thị trường nhanh hơn, dù vẫn phải đối mặt với thói quen mua sắm truyền thống của người Việt.
Xuất hiện tại Việt Nam từ 2009, FamilyMart hiện vận hành khoảng 150 - 160 cửa hàng, chủ yếu tại TP.HCM và Hà Nội. Thuộc hệ sinh thái của Itochu, chuỗi này từng trải qua giai đoạn tái cấu trúc nhượng quyền và hiện đang củng cố mạng lưới qua mô hình nhượng quyền linh hoạt. FamilyMart nhấn mạnh sản phẩm hướng đến người trẻ và nhân viên văn phòng.
Tuy nhiên, thị trường cửa hàng tiện lợi tại Việt Nam có tính cạnh tranh rất cao, với sự tham gia của Circle K, GS25, WinMart+… khiến tốc độ mở rộng và hiệu suất cửa hàng là thách thức lớn.
Ministop là thương hiệu thuộc AEON có khoảng 160 - 187 cửa hàng tại Việt Nam (2024–2025). Chuỗi này khai thác lợi thế về thực phẩm nhanh như kem tươi, bento, món ăn nóng, kết hợp chuỗi cung ứng nội bộ của AEON. Mặc dù phát triển ổn định, Ministop cũng chịu áp lực từ chi phí thuê mặt bằng và nhu cầu đổi mới trải nghiệm khách hàng để cạnh tranh trong kênh convenience.
Khác với các tập đoàn lớn, Daiso chọn hướng hiện diện khiêm tốn với một vài cửa hàng tại Việt Nam, chủ yếu trong trung tâm thương mại lớn. Mô hình “variety store” bán hàng đồng giá, đa chủng loại giúp thương hiệu dễ tiếp cận khách hàng Việt yêu thích hàng Nhật giá rẻ.
Các “sogo shosha” như Itochu, Sumitomo, Mitsubishi hay Marubeni không chỉ đầu tư trực tiếp mà còn đóng vai trò cung cấp vốn, hậu cần, chuỗi cung ứng và quản lý rủi ro cho các thương hiệu Nhật. Itochu hỗ trợ FamilyMart, Sumitomo đồng hành với BRG qua FujiMart, trong khi Mitsubishi và Marubeni tham gia cung ứng hàng nhập khẩu và logistics cho chuỗi bán lẻ Nhật tại Việt Nam.
Nhìn một cách tổng quan, AEON dẫn đầu về quy mô đầu tư và mạng lưới mall, Sumitomo và BRG tạo dấu ấn ở phân khúc siêu thị thực phẩm, còn Uniqlo và MUJI khẳng định vị thế trong mảng lifestyle. FamilyMart và Ministop mở rộng ở phân khúc tiện lợi chiến trường cạnh tranh nhất. Điểm chung của các nhà bán lẻ Nhật là chiến lược “địa phương hóa sâu” từ sản xuất gia công tại Việt Nam, sử dụng nguyên liệu nội địa, đến hợp tác với doanh nghiệp trong nước. Đây là hướng đi giúp họ thích ứng nhanh và kiểm soát chi phí.
Tuy nhiên, tiềm năng tăng trưởng của bán lẻ hiện đại Việt Nam vẫn rất lớn, và các doanh nghiệp Nhật với thế mạnh về chất lượng, dịch vụ và quản trị vận hành đang từng bước chiếm lĩnh niềm tin của người tiêu dùng Việt, tạo nên làn sóng đầu tư bền vững trong thập kỷ tới.