Theo báo cáo mới đây của HSBC, Đông Nam Á là khu vực ở vị trí thuận lợi để đón 3 “cú hích” kinh tế chính khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Trung Quốc mở cửa, bao gồm sự trở lại của ngành du lịch, lợi thế xuất khẩu và gia tăng nguồn vốn đầu tư FDI.
Những điểm sáng khi Trung Quốc mở cửa
Dấu ấn đầu tiên theo sau việc Trung Quốc mở cửa là sự đi lên của ngành du lịch. Du lịch toàn cầu chịu thiệt hại nặng nề từ đại dịch Covid-19. Đông Nam Á không ngoại lệ khi trừ Indonesia, lượng khách du lịch đến các quốc gia này giảm chỉ còn dưới 1% trong năm 2021.
Khác với Thái Lan, du lịch Việt Nam không chiếm tỷ trọng quá cao trong nền kinh tế của đất nước. Kể cả trước đại dịch, thu từ du lịch chỉ chiếm 4,4% GDP toàn quốc, xếp thứ 4 trong các nước ASEAN. Tuy nhiên, không thể xem nhẹ tầm quan trọng của sự sụt giảm nặng nề của ngành du lịch đối với thị trường việc làm tại Việt Nam. Dù tỷ lệ việc làm liên quan đến du lịch nói chung ở Việt Nam thấp nhất trong các quốc gia Đông Nam Á, thị trường việc làm phi chính thức liên quan đến ngành này của nước ta lại tương đối cao, đặc biệt là lĩnh vực nhà hàng chiếm đến 83%.
Do đó, việc Trung Quốc mở cửa trở lại là một dấu hiệu tươi sáng cho sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động du lịch, đặc biệt là ở Việt Nam khi Trung Quốc chiếm khoảng 30% tỷ trọng khách du lịch quốc tế nước ta. Tại Việt Nam, thâm hụt dịch vụ ngày càng lớn do thiếu nguồn thu từ du lịch. Đồng thời, doanh thu từ khách du lịch tăng lên sẽ cung cấp thêm ngoại hối, góp phần giảm thâm hụt dịch vụ cho nước nhà.
Một yếu tố khác vô cùng quan trong khi nhắc tới sự mở cửa của Trung Quốc là quan hệ hợp tác thương mại. Từ năm 2020, ASEAN đã vượt EU trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Tỷ trọng của Trung Quốc trong xuất khẩu từ ASEAN đã tăng mạnh trong 15 năm qua, Trung Quốc trở thành điểm đến xuất khẩu lớn nhất của phần lớn các nền kinh tế trong khu vực.
Ở Việt Nam, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 sau Mỹ. Là một trong những quốc gia có thị phần xuất khẩu đứng thứ hai sau Indonesia, Việt Nam cũng sẽ là một quốc gia hưởng lợi, mặc dù ở mức độ thấp hơn, khi hàng xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ không còn phải trải qua sự kiểm tra nghiêm ngặt như trong đại dịch khi Trung Quốc dần nới lỏng các chính sách.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc mở cửa trở lại khó có thể mang lại sự thúc đẩy đáng kể cho xuất khẩu của ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.
Mặc dù sự phục hồi trong tăng trưởng của Trung Quốc có thể “trải thảm” cho sản xuất toàn cầu, nhưng không có khả năng đảo ngược chu kỳ thương mại vốn đang “hạ nhiệt”, theo báo cáo của HSBC.
Đặc biệt, xuất khẩu hàng điện tử đang suy yếu khiến Singapore cùng với Việt Nam là hai quốc gia Đông Nam Á dễ bị ảnh hưởng nhất. Tại Singapore, xuất khẩu nội địa phi dầu mỏ chất bán dẫn (NODX) trong tháng 11 đã giảm hơn 13% so với cùng kỳ năm trước, mức độ tương tự như giai đoạn công nghệ suy giảm gần đây nhất vào nửa cuối năm 2018 -2019.
Trong khi đó, các lô hàng điện thoại và máy tính của Việt Nam còn chịu tác động nặng nề hơn, giảm gần 30% trong tháng 12 so với cùng kỳ năm trước. Với bản chất phụ thuộc vào nhập khẩu của ngành sản xuất công nghệ, cùng với việc nhập khẩu thiết bị điện tử có xu hướng đi xuống báo hiệu một tương lai không chắc chắn đối với xuất khẩu công nghệ nước nhà.
Đồng thời, một “cú hích” đáng chú ý khác khi Trung Quốc mở cửa trở lại sẽ là sự gia tăng nguồn vốn FDI từ quốc gia đại lục. Trong khi khủng hoảng tài chính châu Á (AFC) có tác động tiêu cực đến môi trường FDI của ASEAN, tỷ trọng FDI chảy vào khu vực trên tổng dòng vốn đầu tư của thế giới đã tăng trong suốt một thập kỷ sau Khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC), đạt mức cao kỷ lục 11% vào năm 2021, gần như ngang bằng với Trung Quốc.
Trong đó, Singapore, Việt Nam và Malaysia là những quốc gia có lĩnh vực sản xuất là trụ cột tăng trưởng chính. Sản xuất tiếp tục là “xương sống” của FDI vào ASEAN, một lĩnh vực mà Trung Quốc đã bắt kịp với các quốc gia châu Á khác trong những năm gần đây.
Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia dẫn đầu tiếp cận lĩnh vực sản xuất của ASEAN, trong đó, Nhật Bản đầu tư mạnh vào ngành công nghiệp ô tô của Thái Lan còn Hàn Quốc thành công trong việc đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm chính sản xuất điện thoại thông minh của họ trên toàn cầu. Nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng bắt kịp và trở thành quốc gia có nguồn vốn FDI nói chung lớn nhất vào ASEAN (nếu không tính đầu tư nội bộ trong ASEAN) vào năm 2021, ngang bằng với Nhật Bản.
Nhìn vào lĩnh vực sản xuất, Indonesia, Việt Nam và Thái Lan đã chứng kiến sự gia tăng mạnh về tỷ trọng FDI từ Trung Quốc, vốn trước đây tập trung đầu tư nhiều hơn vào bất động sản. FDI từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam tăng gấp đôi trong 7 năm, chiếm đến hơn 15% FDI khu vực. Mặc dù quá trình này bị gián đoạn một phần do đại dịch, nhưng sau khi mở cửa trở lại, việc thúc đẩy đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN dự kiến sẽ tiếp tục phát triển mạnh.
Trong đó, một số dự án FDI nổi bật của Trung Quốc bao gồm Goertek và Luxshare, hai trong số ba nhà cung cấp chính của Apple, đã rót thêm vốn trị giá lần lượt là 400 triệu USD và 306 triệu USD để mở rộng sản xuất thiết bị điện tử tiêu dùng và đa phương tiện ở Việt Nam. Đây là một phần trong kế hoạch mở rộng đang diễn ra của Apple tại Việt Nam có tổng giá trị vốn lên tới gần 1 tỷ USD dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất vào giữa năm 2023, gần đây nhất là kế hoạch di dời chuỗi cung ứng MacBook tương đối phức tạp của họ.
Rủi ro lạm chưa chấm dứt
Dù việc Trung Quốc nới lỏng các chính sách phòng chống dịch đã mở ra nhiều triển vọng phát triển tươi sáng cho khu vực ASEAN, thì tình hình kinh tế toàn cầu vẫn đem lại nhiều rủi ro cho sự hồi phục của các quốc gia này. HSBC cảnh báo bức tranh lạm phát của ASEAN vẫn còn mờ mịt khi tình hình ở nhóm quốc gia này phụ thuộc nhiều vào các chính sách địa phương bên cạnh giá cả tài nguyên, khoáng sản toàn cầu.
Trên thực tế, tỷ lệ thất nghiệp ở một số thị trường cao hơn so với năm 2019 trong bối cảnh mức độ phục hồi của ngành du lịch trong khu vực còn nhỏ. Tức là khả năng phục hồi còn lớn, gây áp lực về giá do nhu cầu.
Cùng với đó, mặc dù lạm phát nhập khẩu giảm, nhưng chúng ta không thể loại trừ những cú sốc bên ngoài. Giá điện ở Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực tăng do giá than nhập khẩu vẫn tăng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý đến sự phục hồi của Trung Quốc và những tác động ngầm đối với nhu cầu năng lượng toàn cầu. Trong khi đó ví dụ, triển vọng lạm phát của Thái Lan phụ thuộc rất nhiều vào giá năng lượng toàn cầu.
Việt Nam cùng với Philippines là hai quốc gia duy nhất ở ASEAN chưa chứng kiến lạm phát đạt đỉnh. Trong đó, tại Việt Nam, lạm phát toàn phần bình quân ở mức 3,2% trong năm 2020, thấp hơn nhiều so với mục tiêu lạm phát 4% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
Tuy nhiên, các chỉ số lạm phát gần đây liên tục vượt ngưỡng 4%, phản ánh đà lạm phát đang gia tăng. Mặc dù tình hình được xoa dịu phần nào nhờ giá dầu bình ổn, lạm phát cơ bản và lương thực tiếp tục leo thang ở Việt Nam.
Đồng thời, kể từ khi xuất hiện đại dịch, thế giới đã phải đối mặt với vô số cú sốc bên ngoài, chuỗi cung ứng bị gián đoạn và mô hình tiêu dùng thay đổi hoàn toàn. Giá điện ở Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực tăng do giá than nhập khẩu vẫn tăng.
Mặc dù lạm phát cao, trọng tâm chính của các ngân hàng trung ương ASEAN, dù đã thể hiện hay chưa, cũng sẽ chuyển sang hướng tăng trưởng ít hơn. Thật vậy, số liệu GDP quý 4 gần đây ở Singapore và Việt Nam cho thấy những khó khăn trong thương mại đang gia tăng. Dự kiến ASEAN sẽ chứng kiến mức tăng trưởng giảm nhẹ vào năm 2023 (dự kiến), ngoại trừ Thái Lan, quốc gia sẽ được hưởng lợi chính từ cú hích trong du lịch. Điều này sẽ có tác động lớn tới thời điểm các ngân hàng trung ương sẽ ngừng chu kỳ thắt chặt hiện tại.
Nhìn chung, áp lực giảm bớt của đồng USD trong thời gian gần đây cũng sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam trong cuộc chiến chống lạm phát. Là ngân hàng trung ương cuối cùng trong khu vực đưa ra động thái, NHNN Việt Nam đã có động thái quyết liệt kể từ tháng 9 năm ngoái, triển khai các đợt tăng lãi suất liên tiếp 100 điểm cơ bản mỗi lần. Việt Nam cũng đang phải đối mặt với áp lực lạm phát mạnh mẽ hơn, báo hiệu việc NHNN tiếp tục tăng lãi suất. HSBC kỳ vọng NHNN Việt Nam sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn thêm 50 điểm cơ sở trong cả Quý 1/2023 và Quý 2/2023, nâng lãi suất tái cấp vốn lên 7,0% vào giữa năm 2023.