Thực thi các FTA gặp khó vì lực cản nguồn nhân lực
Hiện Việt Nam đang thực thi 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhưng nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ từ cơ quan Trung ương đến các tỉnh thành, các địa phương, cũng như các doanh nghiệp còn thiếu về số lượng và còn hạn chế về kinh nghiệm cũng như chuyên môn...
Việt Anh
Thực tế, số lượng cán bộ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ thực thi các FTA tại các địa phương chủ yếu là kiêm nhiệm, thêm vào đó kinh nghiệm và chuyên môn, nhất là việc thực thi các FTA chưa có điều kiện được đào tạo và trau dồi thường xuyên.
NHÂN LỰC THIẾU TỪ TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG
Cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã và đang thực thi 15 FTA. Trong đó, có 3 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Những FTA thế hệ mới này là những FTA không chỉ bao gồm những lĩnh vực truyền thống mà còn bao gồm những lĩnh vực phi truyền thống như lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ...
Chính vì thế, nội dung cam kết tương đối phức tạp và có rất nhiều những tiêu chuẩn cao đòi hỏi phải có một đội ngũ nguồn nhân lực có thể hiểu sâu và hiểu rõ về những nội dung cam kết này để có thể giúp các cơ quan quản lý ở cấp địa phương cũng như doanh nghiệp có thể nắm và thực thi một cách đúng và đầy đủ các nội dung cam kết.
Thực tế, thời gian vừa qua, Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương, các hiệp hội và doanh nghiệp đã rất nỗ lực đồng hành cùng nhau để có thể nâng cao hiệu quả thực thi các FTA này.
Nhưng, đứng ở góc nhìn của cơ quan quản lý bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương đưa ra đánh giá: "Chúng ta có thể nhìn thấy tỷ lệ tận dụng các FTA này còn tương đối hạn chế. Với những FTA chúng ta có những kết quả tốt như EVFTA cũng chỉ đạt được ở mức khoảng 26% hoặc những FTA như CPTPP thì chỉ ở mức 5%. Đây là những con số còn tương đối khiêm tốn so với dư địa và những cơ hội từ những FTA này mang lại".
Việt Nam chưa thể tận dụng cơ hội từ các FTA do nguồn nhân lực khó khăn ở cả cấp độ Trung ương, cấp độ tỉnh, thành và cấp độ doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương
Bà Lan Phương phân tích, đối với rất nhiều ngành hàng như dệt may, cà phê, da, giày thì tỷ lệ tận dụng còn rất hạn chế. Ngoài ra, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến trở ngại cho việc các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được các FTA. Một trong những nguyên nhân vô cùng quan trọng chính là lực cản về nguồn nhân lực.
Ở cấp trung ương, bà Lan Phương lấy ví dụ, Vụ Chính sách thương mại đa biên là đơn vị chủ trì tham gia việc đàm phán, ký kết, phê chuẩn và thực thi các FTA, nhưng đơn vị chuyên trách cũng chỉ có 10 nhân sự. Trong khi, công việc từ quá trình đàm phán, ký kết, phê chuẩn cho đến khi thực thi và quá trình thực thi liên quan tới rất nhiều bộ, ngành và 63 tỉnh, thành khác nhau đòi hỏi một lực lượng chuyên trách phải đồ sộ để có thể đủ sức vươn xa hơn hỗ trợ cho các tỉnh, thành và doanh nghiệp.
Còn ở cấp độ địa phương, bà Lan Phương cho biết: "Khi chúng tôi đi khảo sát, tỉnh thành có con số nhân sự khả quan từ 5 - 7 người, nhưng có nơi chỉ được 1-2 người. Và bản thân những nhân sự đó còn phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác nhau. Ví dụ họ phải thực hiện việc cấp C/O, quản lý xuất nhập khẩu…".
Bà Lan Phương nói thêm, nhân sự kiêm nhiệm thì họ chưa có điều kiện để được đào tạo chuyên sâu về những nội dung cam kết các FTA. Việc các chuyên gia, cán bộ nhân sự trực tiếp làm FTA ở các địa phương chưa hiểu rõ về nội dung cam kết sẽ rất khó phối hợp trong kế hoạch hành động của Chính phủ; hoặc kế hoạch hành động của địa phương đưa ra nhưng triển khai đủ quyết liệt để có thể đạt được những kết quả nhất định.
Trong khi đó ở cấp độ doanh nghiệp, bà Lan Phương đánh giá doanh nghiệp ở Việt Nam sẽ khác rất nhiều so với các doanh nghiệp nước ngoài. Doanh nghiệp của nước ngoài có quy mô tương đối lớn và chuyên nghiệp, nên sẽ có một bộ phận pháp chế riêng, một bộ phận để tư vấn xuất nhập khẩu riêng.
Và ở đó doanh nghiệp nước ngoài có khả năng tìm hiểu những quy định rất nhanh. Một ngày, khi mà thị trường đối tác ra quy định mới là các doanh nghiệp này đã nắm bắt từ lúc dự thảo. Đến khi quy định ra là đã có quá trình chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó. Thậm chí, khi mặt hàng xuất khẩu sang mà có những rủi ro như liên quan đến biện pháp chống bán phá và phòng vệ thương mại thì họ cũng sẽ có những cố vấn để sẵn sàng hỗ trợ ứng phó.
Nhưng các doanh nghiệp Việt Nam của Việt Nam có đến hơn 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) nên khả năng có được một bộ phận pháp chế, một bộ phận chuyên gia về FTA tương đối khó khăn.
"Vì thế mà chúng tôi cũng nhìn nhận được những khó khăn đó và phải đưa ra giải pháp để có thể hỗ trợ được doanh nghiệp tốt hơn trong thời gian tới", bà Lan Phương nói.
PHẢI CÓ NHÂN SỰ ĐƯỢC ĐÀO TẠO BÀI BẢN
Về giải pháp, bà Lan Phương đưa ra quan điểm, Việt Nam phải gia tăng số lượng nguồn nhân lực, nguồn chuyên gia về FTA. Có nghĩa, ở cả cơ quan quản lý cấp trung ương, cấp địa phương và doanh nghiệp phải bố trí được nhân lực chuyên trách về vấn đề FTA.
Trong đó, ở cơ quan quản lý cấp trung ương tăng số lượng chuyên gia, còn ở địa phương phải tăng nhân sự làm chuyên trách công tác FTA, giảm các công tác kiêm nhiệm. Như thế, các nhân sự này mới có điều kiện để tập trung vào nội dung chuyên môn về FTA và hỗ trợ thực thi các FTA này được tốt hơn.
Nguồn nhân lực là rào cản khi chúng ta thực thi các FTA
Liên quan đến nhân sự chuyên gia, bà Lan Phương nhấn mạnh, trong thời gian tới, Việt Nam phải đào tạo đội ngũ chuyên gia FTA một cách bài bản và có chuyên môn có hơn.
Thời gian vừa qua, với sự vào cuộc của Chính phủ, các bộ, ban, ngành và các địa phương và các hiệp hội cũng rất tích cực trong việc là tổ chức rất nhiều các hội nghị, hội thảo, tập huấn. Nhưng quá trình triển khai vẫn mang tính chất chung chung rất nhiều. Nội dung đào tạo, tập huấn cho các doanh nghiệp và các tỉnh chưa đi sâu, đi sát vào những nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp.
Vì thế, bà Lan Phương kỳ vọng rằng đội ngũ chuyên gia này sẽ được đào tạo bài bản hơn để có hai mục tiêu hướng tới.
Thứ nhất, sẵn sàng nắm bắt được những định hướng, chủ trương, chính sách ở cấp Trung ương. Ví dụ như xác định Việt Nam sẽ phải tăng cường gia tăng thị phần của mình ở các thị trường FTA để củng cố thị phần.
Thứ hai, gia tăng những định hướng về việc ít làm thủ công. Thay vào đó, tăng sản làm phẩm có thương hiệu, có giá trị gia tăng nhiều hơn. Tức là phải bố trí người để có thể được đào tạo một cách bài bản hơn, để quá trình kết nối với các cơ quan cấp trung ương cũng như hỗ trợ doanh nghiệp sẽ thiết thực và hiệu quả hơn.
Còn đối với doanh nghiệp, vị Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên kỳ vọng: “Vẫn biết các doanh nghiệp của Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp SME, nhưng nếu những doanh nghiệp có điều kiện xây dựng được một bộ phận chuyên gia về FTA trong nội bộ doanh nghiệp của mình thì đấy là một điều quá tốt. Vì Việt Nam đang làm việc với những thị trường rất khó tính như EU, Canada, Mỹ… là những thị trường có rào cản phi thương mại rất lớn. Nếu như chuyên gia của chúng ta không nắm rõ những quy định về hải quan, về xuất xứ hay lao động, môi trường trong FTA cũng như quy định mới phát sinh tại các thị trường này, sẽ rất khó để chúng ta có thể duy trì được tính bền vững và thị phần ổn định tại các thị trường này”.
Dù đã hỗ trợ rất tốt doanh nghiệp tận dụng các FTA, nhưng chương trình của các địa phương chưa thật sự chuyên sâu và cụ thể so với nhu cầu thực của doanh nghiệp
Các tỉnh, thành đã triển khai hiệu quả nhiều biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp tận dụng các FTA, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Đó là thông tin được Bộ trưởng Phụ trách Thương mại của Ủy ban Kinh tế Á - Âu - Andrey Slepnev cho biết, tại Khóa họp IV Ủy ban Hỗn hợp về thực thi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA), diễn ra ngày 13/10/2022.
Sau hơn 2 năm bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, từ giữa năm 2022 dịch bệnh đã từng bước bị đẩy lùi cũng là lúc Việt Nam phải thực hiện nhiều hơn các nghĩa vụ theo lộ trình thực thi các FTA gây áp lực lớn đối với an ninh tài chính quốc gia.
Những năm qua, cân đối thu - chi ngân sách được thực hiện ngày càng tốt hơn do thể chế quản lý dần được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn và thông lệ, ngân sách nhà nước (NSNN) được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên.
Trong số các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia, có một số FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao, phạm vi khá rộng trên nhiều lĩnh vực với nhiều cam kết rất mạnh mẽ, nhất là cam kết mạnh mẽ về cắt giảm thuế quan sẽ làm giảm đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN).
Tầm nhìn cốt lõi của Nghị quyết 68 là xây dựng một khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, chất lượng cao và có năng lực cạnh tranh toàn cầu...
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thành lập tổ công tác đặc biệt, mở đợt tấn công cao điểm truy quét, ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng không rõ xuất xứ…
Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng nhà nước khẩn trương ban hành kết luận thanh tra đối với các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng kinh doanh vàng, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định và báo cáo Thủ tướng kết quả thực hiện trong tháng 5...
Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại với đối tác, doanh nghiệp của các nước, trong đó có Hoa Kỳ trên tinh thần thẳng thắn, xây dựng, mang lại kết quả là lợi ích cho cả 2 bên…
Được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế trong Nghị quyết 68, khu vực kinh tế tư nhân đang đứng trước thời cơ bứt phá, nhưng để biến kỳ vọng chính sách thành hiện thực, vẫn còn không ít rào cản cần được tháo gỡ...
Chính phủ đề xuất tiếp tục giảm 2% thuế VAT đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đến hết năm 2026 nhằm thúc đẩy tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng...
Dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng đã tăng quyền hạn, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp...
Bài viết "Động lực mới cho phát triển kinh tế" của Tổng Bí thư Tô Lâm có thể xem là một cột mốc quan trọng trong tư duy lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân của Việt Nam trong giai đoạn mới...
Chủ trì Chương trình Bữa sáng Doanh nhân ngày 10/5, Chủ tịch VACOD-HBA Nguyễn Hồng Sơn không khỏi tự hào về việc hầu hết các đề xuất, kiến nghị của HBA gửi lên Tổng Bí thư Tô Lâm góp phần tạo đột phá phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã được đưa vào nghị quyết 68 mang tính đột phá của Bộ Chính trị…
Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) đề xuất áp dụng thống nhất mức thuế suất ưu đãi 10% đối với tất cả loại hình báo chí, tương tự như chính sách ưu đãi đang áp dụng cho báo in...
Nghị quyết 68 mở đường cho sự phát triển vượt bậc của kinh tế tư nhân thông qua việc kiến tạo một thể chế thị trường hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh và tăng cường hội nhập toàn cầu...
Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ; định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng...
Nghị quyết 68, với những nỗ lực cải cách, đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu tạo dựng môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, mở ra cơ hội bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, từ đó kiến tạo một nền kinh tế Việt Nam năng động và bền vững...
Chính phủ sẽ bắt tay ngay vào việc sắp xếp và đưa bộ máy mới vào hoạt động theo dự kiến từ 1/7, không được để gián đoạn, ách tắc công việc, nhất là các thủ tục hành chính với người dân, doanh nghiệp...
Với những đột phá sâu sắc trong tư duy pháp lý và kinh tế, Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ khai phóng, trở thành động lực mạnh mẽ, củng cố niềm tin và khơi dậy khát vọng kinh doanh, làm giàu trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân...
Đứng trước những nguy cơ chiến tranh thương mại toàn cầu, người ta thường nghĩ đến sự tác động bề nổi vào các doanh nghiệp xuất khẩu, tuy nhiên thực tế những chính sách thuế sẽ có thể “ăn sâu” vào cả thị trường nội địa…