Vượt qua những thách thức cùng khó khăn, kinh tế Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2024 vẫn duy trì xu hướng tích cực. Các ngành, các lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho các tháng đến cuối năm.
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
Giá xăng dầu trong nước tăng theo giá thế giới, nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt tăng và mức đóng bảo hiểm y tế được điều chỉnh theo mức lương cơ sở mới là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 năm 2024 tăng 0,48% so với tháng trước.
Bình quân 7 tháng năm 2024, CPI tăng 4,12% so với cùng kỳ năm 2023; lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Trong mức tăng 0,48% của CPI tháng 7 năm 2024 so với tháng trước, có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; riêng nhóm bưu chính, viễn thông ổn định giá.
Lạm phát cơ bản trong tháng tăng 0,36% so với tháng trước, tăng 2,61% so với cùng kỳ năm ngoái. Bình quân 7 tháng năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,73% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,12%), chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và xăng dầu là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 7 năm 2024 ước đạt 528,3 nghìn tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 12,1%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 5,3%; may mặc tăng 6,9%; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 13,9%; du lịch lữ hành tăng 6,8%.
Lũy kế 7 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.625,7 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ tăng 10,6%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,2% (cùng kỳ tăng 9,8%).
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 7 tháng năm 2024 ước đạt 2.801,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,3% tổng mức và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023 (loại trừ yếu tố giá tăng 4,3%). Trong đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,1%; may mặc tăng 9,1%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) tăng 3,4%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 11,2%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm 2024 ước đạt 419,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,6% tổng mức và tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2023. Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng năm 2024 ước đạt 35,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,0% tổng mức và tăng 31,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh thu dịch vụ khác của 7 tháng năm 2024 ước đạt 370,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2023.
HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Trong tháng cả nước có 14,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là hơn 110 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký hơn 88,4 nghìn lao động, giảm 6,3% về số doanh nghiệp, giảm 22,8% về vốn đăng ký và tăng 3,3% về số lao động so với tháng 6/2024. So với cùng kỳ năm 2023, tăng 7,3% về số doanh nghiệp, giảm 13% về số vốn đăng ký và tăng 11,9% về số lao động.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 7,5 tỷ đồng, giảm 17,6% so với tháng trước và giảm 18,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, cả nước còn có hơn 6,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 26,2% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2023.
Cũng trong tháng, có 6.837 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 26,2% so với tháng trước và giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2023; 7.035 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 30,2% và tăng 33,8%; có 1.730 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 22,4% và tăng 9,4%.
Lũy kế 7 tháng năm 2024, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 78 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2023; hơn 35,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 1,5%; 11,9 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 14,5%. Bình quân một tháng có hơn 17,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
CÁN CÂN XUẤT - NHẬP KHẨU
Cũng trong tháng, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 69,72 tỷ USD, tăng 8,7% so với tháng trước và tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 7 tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 439,88 tỷ USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó xuất khẩu tăng 15,7%; nhập khẩu tăng 18,5%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,08 tỷ USD.
Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 7 năm 2024 ước đạt 35,92 tỷ USD, tăng 6,7% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,87 tỷ USD, tăng 9,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 26,05 tỷ USD, tăng 5,6%.
So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước tính tăng 19,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 25,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 16,7%. Lũy kế 7 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 226,98 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 63,08 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 163,9 tỷ USD, tăng 13,8%, chiếm 72,2%.
Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 7 năm 2024 ước đạt 33,8 tỷ USD, tăng 11% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 12,2 tỷ USD, tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,6 tỷ USD, tăng 10,8%.
So với cùng kỳ năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng tăng 24,7%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 29,9%. Lũy kế 7 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 212,9 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78 tỷ USD, tăng 21,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 134,9 tỷ USD, tăng 16,9%.
CHỈ SỐ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7 năm 2024 ước tính tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, so với cùng kỳ năm ngoái, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,1%; riêng ngành khai khoáng giảm 7,0%.
Lũy kế 7 tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ giảm 0,8%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,5% (cùng kỳ giảm 1,2%), đóng góp 8,2 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,4% (cùng kỳ tăng 1,4%), đóng góp 1,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,2% (cùng kỳ tăng 5,2%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,2% (cùng kỳ giảm 2,0%), làm giảm 0,9 điểm phần trăm.
THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Thu ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2024 ước tăng 14,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Chi ngân sách Nhà nước ước tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2023, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như chi trả kịp thời cho các đối tượng theo quy định.
Thu ngân sách Nhà nước:
Tổng thu ngân sách Nhà nước trong tháng ước đạt gần 150 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2024 ước đạt 1.188,1 nghìn tỷ đồng, bằng 69,8% dự toán năm và tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, một số khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa tháng 7/2024 ước đạt 126,2 nghìn tỷ đồng; lũy kế 7 tháng năm 2024 ước đạt 995 nghìn tỷ đồng, bằng 68,9% dự toán năm và tăng 15,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Thu từ dầu thô tháng 7/2024 ước đạt 4,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế 7 tháng năm 2024 ước đạt 34,4 nghìn tỷ đồng, bằng 74,7% dự toán năm và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2023.
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 7/2024 ước đạt 18,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế 7 tháng năm 2024 ước đạt 158,5 nghìn tỷ đồng, bằng 77,7% dự toán năm và tăng 11,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Chi ngân sách Nhà nước:
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 7 năm 2024 ước đạt 152,6 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng chi ngân sách Nhà nước 7 tháng năm 2024 ước đạt 948,3 nghìn tỷ đồng, bằng 44,7% dự toán năm và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, chi thường xuyên 7 tháng năm 2024 ước đạt 652,5 nghìn tỷ đồng, bằng 51,8% dự toán năm và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm ngoái; chi đầu tư phát triển đạt 232,1 nghìn tỷ đồng, bằng 34,3% và giảm 8,4%; chi trả nợ lãi 63,2 nghìn tỷ đồng, bằng 56,5% và tăng 7,7%.
VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HÀNG HÓA
Hoạt động vận tải trong tháng diễn ra sôi động, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực so với cùng kỳ năm 2023, trong đó vận tải hành khách tháng 7 năm 2024 tăng 11,9% về vận chuyển và tăng 5,5% về luân chuyển; vận tải hàng hóa tăng 14,5% về vận chuyển và tăng 12,4% về luân chuyển.
Lũy kế 7 tháng năm 2024, vận chuyển hành khách tăng 7,2% và luân chuyển tăng 10,5% so với cùng kỳ năm ngoái; vận chuyển hàng hóa tăng 13,3% và luân chuyển tăng 11,3%.
Vận tải hành khách trong tháng ước đạt 447,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 6,4% và luân chuyển 22,7 tỷ lượt khách/km, tăng 2,9% so với tháng trước do nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng trong mùa cao điểm. Lũy kế 7 tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 2.805,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển đạt 155,6 tỷ lượt khách/km, tăng 10,5%. Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 2.795,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái và 123,1 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 6,0%; vận tải ngoài nước ước đạt 10,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 21,6% và 32,5 tỷ lượt khách/km luân chuyển, tăng 31,7%.
Bên cạnh đó, vận tải hàng hóa trong tháng ước đạt 217,9 triệu tấn, tăng 1,2% so với tháng trước và luân chuyển 45,4 tỷ tấn/km, tăng 1,2%. Lũy kế 7 tháng năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 1.476,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2023 và luân chuyển 302,2 tỷ tấn/km, tăng 11,3%. Trong đó, vận tải trong nước ước đạt 1.449,8 triệu tấn vận chuyển, tăng 13,5% và 183,5 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái; vận tải ngoài nước ước đạt 27,0 triệu tấn vận chuyển, tăng 5,9% và 118,7 tỷ tấn/km luân chuyển, tăng 18,5%.
KHÁCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7 năm 2024 tăng khá cao so với cùng kỳ năm 2023 nhờ chính sách thị thực thuận lợi, chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được các địa phương trên cả nước đẩy mạnh.
Trong tháng, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,15 triệu lượt người, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Lũy kế 7 tháng năm 2024, khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, tăng 51,0% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2019 - năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
Trong tổng số gần 10 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam 7 tháng năm nay, khách đến bằng đường hàng không đạt 8,4 triệu lượt người, chiếm 84,2% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam và tăng 45,1% so với cùng kỳ năm 2023; bằng đường bộ đạt 1,4 triệu lượt người, chiếm 14,1% và tăng 84,2%; bằng đường biển đạt 165,5 nghìn lượt người, chiếm 1,7% và gấp 3 lần cùng kỳ năm ngoái.
VỐN FDI ĐĂNG KÝ CẤP MỚI
Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước tiếp tục được các Bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh thực hiện.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong tháng ước tăng 8,2% so với tháng trước; Lũy kế 7 tháng năm 2024 ước đạt 40,6% kế hoạch năm và tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 7 tháng năm 2024 ước đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 7 năm 2024 ước đạt 57,6 nghìn tỷ đồng, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2023, bao gồm: Vốn Trung ương quản lý đạt 10,1 nghìn tỷ đồng, giảm 4,9%; vốn địa phương quản lý đạt 47,5 nghìn tỷ đồng, giảm 0,9%. Lũy kế 7 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 301,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6% kế hoạch năm và tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ bằng 40,2% và tăng 23,6%).
Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 12,23 tỷ USD, chiếm 77,8% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,11 tỷ USD, chiếm 13,4%; các ngành còn lại đạt 1,39 tỷ USD, chiếm 8,8%.
Trong số 62 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 7 tháng năm 2024, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4,55 tỷ USD, chiếm 42,3% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) 1,31 tỷ USD, chiếm 12,1%; Trung Quốc 1,22 tỷ USD, chiếm 11,3%; Nhật Bản 991,5 triệu USD, chiếm 9,2%; Thổ Nhĩ Kỳ 731,3 triệu USD, chiếm 6,8%; Đài Loan 588,4 triệu USD, chiếm 5,5%.
7 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn FDI đăng ký cấp mới là Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hà Nội, Đồng Nai, Hưng Yên và Thái Nguyên.