Trong khuôn khổ các hoạt động “Tổng kết hoạt động KH&CN nổi bật của ngành Công Thương giai đoạn 2016-2020 và định hướng giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2045”, ngày 24/10/2022, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội thảo chuyên đề “Phát triển hệ thống các tổ chức KH&CN công lập, gắn với định hướng hoạt động KH&CN, đổi mới sáng tạo của ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045”.
Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ của ngành Công Thương được ứng dụng hiệu quả trong sản xuất, kính doanh
Giai đoạn 2016-2020, tập trung phát triển mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ của ngành Công Thương; tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động và đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ.
Hiện tại, Bộ Công Thương quản lý 13 viện, trong số đó có 2 viện đã thực hiện cổ phần hóa; Ngoài ra có thêm 9 viện nghiên cứu hiện nằm ở các tập đoàn, tổng công ty.
Trong số 11 đơn vị trực thuộc, có 1 viện nghiên cứu về chính sách - chiến lược, các viện còn lại là các viện nghiên cứu công nghệ - ứng dụng với lĩnh vực khoa học và công nghệ, gắn với các ngành, phân ngành, lĩnh vực khác nhau thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, tổng số công bố khoa học của 13 viện nghiên cứu thuộc Bộ là 933, trong đó có 786 công bố trong nước và 147 công bố quốc tế. Ba đơn vị có số công bố nhiều nhất là: Viện Nghiên cứu Cơ khí (227); Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương (113) và Viện Công nghiệp Thực phẩm (83). Xét riêng về công bố quốc tế, ba đơn vị dẫn đầu là: Viện Nghiên cứu Cơ khí (45); Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hóa (32) và Viện Công nghiệp Thực phẩm (19).
Đặc biệt, cũng trong giai đoạn này, tổng số đầu ra về công nghệ của các Viện là 197. Trong đó, số lượng công nghệ đã được đăng ký sở hữu trí tuệ, chuyển giao, ứng dụng cho doanh nghiệp là 72 công nghệ, chiếm 37%; số lượng công nghệ chưa đăng ký sở hữu trí tuệ nhưng đã chuyển giao, ứng dụng cho doanh nghiệp là 75 công nghệ, chiếm 38%.
Ngành Công Thương đã có nhiều công trình được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ; Giải thưởng sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam (VIFOTEC)...
Những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đã được ứng dụng nhanh chóng vào thực tiễn hoạt động của các ngành, lĩnh vực giúp duy trì đà tăng trưởng, tạo cơ hội phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Các công trình nghiên cứu của ngành điện đã giải quyết nhiều vấn đề phức tạp của sản xuất. Doanh nghiệp trong nước đã đủ năng lực sản xuất cung cấp các máy biến áp truyền tải cấp điện áp 220kV, một số máy biến áp cấp điện áp 500kV. Tích hợp, làm chủ công nghệ giám sát điều khiển trạm biến áp và sản xuất nhiều linh phụ kiện cho các công trình lưới điện truyền tải... quản lý vận hành hệ thống điện được hiện đại hóa với các giải pháp lưới điện thông minh.
Các doanh nghiệp ngành Dầu khí đã nghiên cứu, chế tạo và triển khai thành công nhiều công trình có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, công trình đầu tư đóng mới giàn khoan Tam Đảo 03 và Tam Đảo 05 đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia chế tạo giàn khoan tự nâng có thể hoạt động ở vùng biển sâu đến 400ft với điều kiện làm việc khắc nghiệt...
Việc nghiên cứu, đầu tư đổi mới công nghệ trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản đã góp phần thay đổi diện mạo ngành than theo hướng hiện đại: công nghệ thiết bị khai thác than lộ thiên đạt trình độ tiên tiến; nâng cao mức độ cơ giới hóa, tự động hóa ở các nhà máy tuyển, mức thu hồi các chủng loại than.
Trong lĩnh vực cơ khí chế tạo lại càng đa dạng bao gồm: Thiết kế mới, thiết kế cải tiến, làm chủ bí quyết thiết kế chế tạo các dây chuyền thiết bị nhập ngoại, nội địa hóa thiết bị, phụ tùng; Phục hồi sửa chữa các thiết bị, phụ tùng máy móc có giá trị kinh tế lớn… Đưa vào vận hành nhiều hệ thống điều khiển DCS và SCADA cho hầu hết các ngành công nghiệp... Chế tạo thành công nhiều sản phẩm phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến... xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Các doanh nghiệp trong lĩnh vực hoá chất đã chú trọng tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật và cách thức sản xuất mới, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm. Công trình “Nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm phân lân nung chảy đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu” đã đưa sản phẩm xuất khẩu sang các nước như Australia, Nhật Bản, Malaysia, Đài Loan…
Trong lĩnh vực công nghệ sinh học hầu hết các nhiệm vụ KH&CN đã được triển khai theo định hướng nghiên cứu ứng dụng, một số lĩnh vực đạt trình độ các nước phát triển trên thế giới như công nghệ sản xuất đường chức năng isomaltolose, enzyme xylanase… Các đơn vị đã nghiên cứu ứng dụng các công nghệ vi sinh hiện đại để sản xuất, chế biến thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu hoá dược, sản phẩm phục vụ công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng…
“Dự án Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa ngành công nghiệp” của Bộ Công Thương đã triển khai xây dựng 468 mô hình điểm áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến, công cụ cải tiến hiện đại, tập trung chủ yếu cho 08 ngành, lĩnh vực ưu tiên. Hiệu quả đối với từng mô hình điểm là hết sức rõ nét. Theo kết quả khảo sát, 99,3% doanh nghiệp đánh giá hoạt động hỗ trợ rất hiệu quả, trong đó, yếu tố được cải thiện nhiều nhất là năng lực tự thực hiện cải tiến của doanh nghiệp (98%), 64,7% các doanh nghiệp có cải thiện về năng suất, 56,9% doanh nghiệp có cải thiện về chất lượng sản phẩm, giảm thiểu lãng phí nguyên nhiên vật liệu 54,2%, 47,1% doanh nghiệp có cải thiện về thời gian giao hàng...
Các nghiên cứu trong lĩnh vực chiến lược, chính sách đã cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn phục vụ việc hoạch định chiến lược, chính sách và quy hoạch phát triển bền vững của ngành. Tập trung giải quyết các vấn đề nhằm tái cấu trúc và phát triển bền vững các ngành, lĩnh vực công nghiệp và thương mại, phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao.
5 trọng tâm trong hoạt động KH&CN ngành Công Thương giai đoạn tới
Ông Trần Việt Hòa – Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương cho biết, những kết quả đã đạt được không thể thiếu vai trò quan trọng của các viện nghiên cứu thuộc Bộ. Vai trò của các viện nghiên cứu đã có mặt trong tất cả các lĩnh vực, kết quả đạt được trong giai đoạn vừa qua, từ nghiên cứu chính sách phục vụ xây dựng chính sách đến nghiên cứu ứng dụng và triển khai đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, trọng tâm trong hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ ngành Công Thương sẽ tập trung vào 5 vấn đề:
Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với quá trình tái cơ cấu ngành Công Thương, đưa khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực chính, thúc đẩy phát triển công nghiệp nhanh và bền vững.
Thứ hai, chú trọng công tác nghiên cứu, tham mưu xây dựng định hướng, chính sách phát triển ngành Công Thương trong tình hình mới; cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực thi, khai thác có hiệu quả cam kết trong các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp. Lấy doanh nghiệp làm trung tâm và là chủ thể sống động của đổi mới sáng tạo và tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Thứ tư, xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ vững mạnh, làm chỗ dựa tin cậy và hiệu quả cho doanh nghiệp cũng như cho các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ năm, đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ ngành Công Thương theo hướng hiện đại.
Ông Trần Việt Hòa nhấn mạnh, bước sang giai đoạn mới 2021-2030, thực hiện 5 định hướng lớn trên, cần nhìn nhận lại vai trò của các viện để làm sao các viện cùng phối hợp với các đơn vị trong ngành Công Thương triển khai hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong giai đoạn mới với những thách thức mới.
Tại Hội thảo, ông Hòa cho biết, Vụ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các đơn vị, các viện nghiên cứu thuộc Bộ xây dựng dự thảo báo cáo “Định hướng phát triển các tổ chức KH&CN công lập ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045”. Hội thảo tập trung thảo luận vào các vấn đề chính: Vai trò và sứ mệnh của các tổ chức KH&CN công lập, đồng thời đánh giá những kết quả và đóng góp của tổ chức trong giai đoạn vừa qua; Yêu cầu về phát triển KH&CN phục vụ mục tiêu phát triển ngành, lĩnh vực gắn với mục tiêu chung của phát triển, tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045; Căn cứ khoa học và thực tiễn để xác định việc tồn tại, phát triển của một tổ chức KH&CN. Từ đó thảo luận, trao đổi về phương án đề xuất trong dự thảo Báo cáo.
Những ý kiến trao đổi, thảo luận thẳng thắn và cởi mở tại Hội thảo sẽ được Vụ KH&CN tập hợp để hoàn thiện dự thảo Báo cáo định hướng phát triển cùng lộ trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức KH&CN trực thuộc Bộ giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, là căn cứ đề xuất Lãnh đạo Bộ có những quyết sách phù hợp trong phát triển mạng lưới tổ chức KH&CN công lập của Bộ Công Thương trong giai đoạn tiếp theo.
Định hướng phát triển các tổ chức KH&CN công lập ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045: Giai đoạn đến 2030: sự phát triển của các tổ chức KH&CN công lập của Bộ Công Thương gắn sứ mệnh hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc nâng cao năng lực hấp thụ và từng bước nâng cấp trình độ công nghệ; cung cấp hạ tầng chung về R&D cho các doanh nghiệp; điều phối sự hợp tác về R&D giữa Viện Nghiên cứu - Doanh nghiệp - Trường Đại học, đồng thời cung cấp nguồn nhân lực KH&CN cho các doanh nghiệp Giai đoạn 2030-2035: Hệ thống tổ chức KH&CN công lập trong giai đoạn này thực hiện sứ mệnh về nâng câp trình độ công nghệ truyền thống trong nước, thúc đẩy nền sản xuất trong nước chuyển dần sang giai đoạn trưởng thành của công nghệ và tích lũy kinh nghiệm để nâng cao năng lực NC&PT độc lập, bắt đầu đẩy mạnh đổi mới và cải thiện công nghệ Tầm nhìn đến 2045: Tổ chức KH&CN công lập của Bộ Công Thương ở giai đoạn này có sứ mệnh dẫn dắt về mặt công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước; tạo ra các hạt nhân công nghệ cho cuộc cạnh tranh công nghiệp trung và dài hạn; cung cấp công nghệ nền trong các lĩnh vực công nghệ mới nổi cũng như hỗ trợ R&D cho các doanh nghiệp đầu tư dựa vào công nghệ mới. |