Giá thép ngày 9/7, thép xây dựng trong nước không có sự thay đổi, duy trì ở mức thấp.
Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 giữ nguyên ở mức 14.040 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.380 đồng/kg.
Tương tự, thương hiệu thép Việt Ý, với thép cuộn CB240 tiếp đà đi ngang, có giá 13.740 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.140 đồng/kg.
Thép Việt Đức, với thép cuộn CB240 vẫn ở mức cũ 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.240 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 ở mức 14.010 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.060 đồng/kg.
Thép VAS, thép cuộn CB240 không thay đổi, giữ ở mức 13.850 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.960 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.060 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.910 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.840 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.240 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.770 đồng/kg.
Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.010 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.060 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.100 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.340 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.850 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.960 đồng/kg.
Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 dừng ở mức 15.100 đồng/kg.
Còn giá thép giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) đã giảm xuống mức 3.541 Nhân dân tệ/tấn.
Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, tốc độ sản xuất thép thô của các nhà máy tại Việt Nam đang chững lại trong vài tháng gần đây, dù cao hơn mức đáy cuối năm ngoái nhưng vẫn chưa hồi phục hoàn toàn.
Theo ước tính của VDSC, tiêu thụ thép thô lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đạt dưới 10 triệu tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn 9% so với cùng kỳ năm 2021.
Chuyên gia VDSC cũng cho biết, những con số này vẫn không thể thuyết phục chúng tôi tin rằng nhu cầu thép đang tốt lên.
Hơn nữa, lượng xuất khẩu thép thô trong nửa đầu năm ước tính 875.000 tấn, gấp đôi so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng khoảng 1/10 tổng tiêu thụ. Con số này phần nào cho thấy tín hiệu về tốc độ hồi phục của hoạt động xây dựng và sản xuất công nghiệp trong nước.
Khi tình hình sản xuất, tiêu thụ toàn ngành không thật sự tích cực, biên lợi nhuận vẫn còn chịu sức ép từ giá bán giảm, VDSC cho rằng nhà đầu tư cần điều chỉnh kỳ vọng về kết quả kinh doanh quý 2 của các doanh nghiệp thép trên sàn cho hợp lý để có quyết định đầu tư phù hợp.
Hầu hết các doanh nghiệp thép sẽ đạt tăng trưởng so với quý 1/2023, tuy nhiên tăng trưởng sẽ âm khá lớn khi so với cùng kỳ năm ngoái do quý 2/2022 là quý cao điểm ghi nhận lợi nhuận của ngành thép.
Bước vào quý 3, VDSC khuyến nghị tiếp tục theo dõi sản lượng tiêu thụ của các doanh nghiệp để có mức kỳ vọng hợp lý về mức độ hồi phục lợi nhuận, đặc biệt khi quý 3 là mùa mưa và tháng Ngâu- mùa thấp điểm rơi vào tháng 8 đến tháng 9 năm nay.