
Người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài có thể đứng đơn mua nhà ở xã hội hay không? Đây là câu hỏi mà nhiều người dân thắc mắc.
Để giải đáp vấn đề này, Thương Gia đã có cuộc trao đổi cùng Ths. Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh, chuyên gia độc lập trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, bất động sản.
Thưa Luật sư, người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đủ điều kiện mua nhà ở xã hội, thì người đó có thể đứng tên một mình để đăng ký mua nhà ở xã hội không? Nếu có, người này cần làm những hồ sơ giấy tờ gì để có thể bắt đầu làm thủ tục đăng ký mua nhà ở xã hội?
Theo Điều 78 Luật Nhà ở năm 2023 và hướng dẫn tại Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội là phải thuộc một trong 12 nhóm đối tượng quy định tại Điều 76 Luật Nhà ở, đồng thời đáp ứng các điều kiện về thực trạng nhà ở và điều kiện về thu nhập.
Điều kiện về thực trạng nhà ở là người dân phải chưa có nhà ở tại địa phương nơi có dự án nhà ở xã hội hoặc có nhà ở nhưng diện tích bình quân đầu người dưới 15 m2 sàn/người; chưa mua nhà ở xã hội hoặc hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở dưới mọi hình thức.
Điều kiện về thu nhập được quy định như sau: Nếu người đứng đơn mua nhà ở xã hội là người độc thân thì có thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng tính theo bảng tiền công, tiền lương nơi đối tượng làm việc xác nhận; nếu người đứng đơn đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ (chồng) của người đó có tổng thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng.
Người nước ngoài (không có quốc tịch Việt Nam) không thuộc đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo Điều 76 Luật Nhà ở. Tuy nhiên, pháp luật về nhà ở cũng không quy định (đồng thời không cấm) việc người Việt Nam có vợ hoặc chồng là người nước ngoài được phép đứng đơn mua nhà ở xã hội.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ, chồng được phép có tài sản chung và tài sản riêng; vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình. Vợ chồng có thể lập thỏa thuận phân chia tài sản bằng văn bản, thông qua thỏa thuận này, vợ, chồng sẽ cùng thống nhất việc tài sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng.
Do đó, theo quan điểm của tôi, người Việt Nam đủ điều kiện mua nhà ở xã hội (đúng đối tượng, đủ điều kiện về nhà ở, thu nhập) khi kết hôn với người nước ngoài thì có thể đứng đơn một mình để đăng ký mua nhà ở xã hội nếu có thỏa thuận về việc vợ, chồng (là người nước ngoài) đồng ý nhà ở xã hội là tài sản riêng của người đứng đơn.
Tuy nhiên việc giải quyết bán nhà ở xã hội cho trường hợp này phụ thuộc vào khâu thẩm định, kiểm tra, xác định đối tượng của Sở Xây dựng địa phương nơi có dự án. Trường hợp cần thiết, Sở Xây dựng có thể sẽ gửi văn bản cho Bộ Xây dựng để xin hướng dẫn, giải đáp.
Khi vợ/chồng là người nước ngoài thực hiện thủ tục từ chối quyền sở hữu tài sản, người đứng đơn đăng ký mua nhà ở xã hội cần lưu ý những vấn đề gì để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình và tuân thủ đúng quy định pháp luật?
Người Việt Nam đủ điều kiện mua nhà ở xã hội khi kết hôn với người nước ngoài và thì về nguyên tắc có thể đứng đơn một mình để đăng ký mua nhà ở xã hội nếu có thỏa thuận về việc vợ, chồng (là người nước ngoài) đồng ý nhà ở xã hội là tài sản riêng của người đứng đơn.
Trường hợp này vợ/chồng cần lập thỏa thuận phân chia tài sản bằng văn bản và cần có công chứng, chứng thực để nộp cùng hồ sơ đăng ký mua nhà ở xã hội. Việc giải quyết bán nhà ở xã hội cho trường hợp này do chủ đầu tư thực hiện và có sự thẩm định, kiểm tra của Sở Xây dựng nơi có dự án.
Điểm mấu chốt ở đây là văn bản thỏa thuận phân chia tài sản, đây là một thỏa thuận dân sự, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự giữa vợ và chồng. Theo đó, người vợ, chồng (là người nước ngoài) đồng ý, xác nhận rằng nhà ở xã hội là tài sản riêng của người còn lại.
Về nguyên tắc, sau khi được giải quyết mua nhà ở xã hội, người đứng đơn sẽ ký hợp đồng và thanh toán theo tiến độ hợp đồng, được nhận bàn giao căn hộ và đứng tên trên giấy chứng nhận sở hữu căn hộ.
Vì vậy, pháp luật thừa nhận đây là tài sản riêng của một mình vợ, chồng (người Việt Nam) dựa trên căn cứ là thỏa thuận giữa hai người. Do “việc dân sự cốt ở đôi bên” nên vợ, chồng cần thảo luận, bàn bạc, thống nhất để tránh các tranh chấp về sau.
Theo Luật sư, trong trường hợp, người đứng đơn đủ điều kiện mua nhà ở xã hội, nhưng vợ hoặc chồng là người nước ngoài có thu nhập cao hơn mức 15 triệu đồng/tháng, liệu người đứng đơn có thể mua được nhà ở xã hội không?
Như tôi đã nêu, pháp luật quy định không thực sự rõ ràng về vấn đề một cặp vợ chồng nhưng chỉ có một người đứng đơn mua nhà ở xã hội và xác định đây là tài sản riêng của mình.

Song, liên quan đến điều kiện về thu nhập để được xét duyệt mua nhà ở xã hội thì Điều 30 Nghị định số 100/2024/NĐ-CP về phát triển nhà ở xã hội quy định rõ: “Trường hợp người đứng đơn là người độc thân thì có thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 15 triệu đồng tính theo Bảng tiền công, tiền lương do cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nơi đối tượng làm việc xác nhận. Trường hợp người đứng đơn đã kết hôn theo quy định của pháp luật thì người đứng đơn và vợ (chồng) của người đó có tổng thu nhập hàng tháng thực nhận không quá 30 triệu đồng…”
Như vậy, kể cả trường hợp người nước ngoài đồng ý, xác nhận để vợ, chồng mình đứng đơn mua nhà ở xã hội và là tài sản riêng của người này thì vẫn cần đáp ứng điều kiện về tổng thu nhập của hai vợ chồng không quá 30 triệu đồng/tháng.
Quy định này theo tôi là cần thiết vì nguồn lực của Nhà nước hỗ trợ chính sách phát triển nhà ở xã hội còn hạn chế nên cần ưu tiên giải quyết cho các đối tượng yếu thế, có hạn chế về thu nhập trước tiên.
- Xin cảm ơn Luật sư!