10 mẫu xe “cơ bắp” tốt nhất thập niên 1970

Có thể nói, những năm 70 là thời kỳ hoàng kim của dòng xe “cơ bắp” Mỹ với nhiều mẫu xe nổi tiếng và được yêu thích.

Theo định nghĩa, một chiếc xe “cơ bắp” phải có chút gì đó “khủng” - tức là sức mạnh động cơ. Nhưng do những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của ngành công nghiệp ô tô, mã lực gần như biến mất sau năm 1971.

Đối với những người hoài niệm về thập niên 1970 với những chiếc coupe hạng sang thiên về hiệu suất của thời đại đó dưới đây là 10 mẫu xe kiểu dáng đẹp mắt, sở hữu khoang động cơ lớn. Đến cuối thập kỷ, khởi đầu của những gì sau này trở thành hiệu suất thực sự bắt đầu xuất hiện trở lại và trở thành điểm khởi đầu được săn đón.

CHEVROLET CAMARO (1970 - 1973)

Chevrolet Camaro thuộc thế hệ đầu tiên, sản xuất từ năm 1967 - 1969 và thế hệ thứ 2, sản xuất từ năm 1970 - 1981.

Các mẫu xe Camaro từ 1970 - 1973 thuộc thế hệ thứ 2, nổi bật với thiết kế lại hoàn toàn, mang đến vẻ ngoài cơ bắp và mạnh mẽ hơn. Đặc biệt, năm 1970 đánh dấu sự thay đổi lớn về thiết kế so với các phiên bản trước với kiểu dáng thân xe dài hơn, thấp hơn và rộng hơn cùng lưới tản nhiệt đặc trưng.

Thân xe được thiết kế lại hoàn toàn mang phong cách cơ bắp đặc trưng của những năm 70 nổi bật với lưới tản nhiệt, đèn pha đôi và các đường gân dập nổi trên thân xe. Nhiều tùy chọn động cơ V8 bao gồm cả động cơ hiệu suất cao như động cơ 350 và 396 cung cấp sức mạnh và hiệu suất ấn tượng.

Hệ thống treo được cải tiến, mang lại khả năng vận hành ổn định và êm ái hơn so với các phiên bản trước. Nội thất được thiết kế lại, tập trung vào sự thoải mái và tiện nghi cho người lái và hành khách.

Có nhiều biến thể khác nhau, bao gồm cả phiên bản Z28 với hiệu suất cao và phiên bản RS với các tùy chọn ngoại thất đặc biệt. Nhưng loại được chú ý nhất là động cơ khối nhỏ LT-1 350ci nâng đặc trong Z/28 năm 1970, tạo ra công suất cực đại 360 mã lực.

PONTIAC FIREBIRD TRANS AM (1970 - 1982)

Là mẫu ô tô Mỹ được Pontiac chế tạo và sản xuất từ những năm 1967 - 2002. Được thiết kế như một “chiếc xe ngựa” để cạnh tranh với Ford Mustang và được giới thiệu vào ngày 23/2/1967.

Năm 1970 là năm đầu tiên của thế hệ Firebird thứ 2 bắt đầu cung cấp một loạt các phiên bản phụ đa dạng hơn và đánh dấu sự xuất hiện của Firebird Esprit và Firebird Formula. Firebird Esprit được chào bán như một mẫu xe hạng sang với các tùy chọn ngoại thất, gói nội thất cao cấp và Pontiac 350 là trang bị tiêu chuẩn.

Formula được quảng cáo là một lựa chọn thay thế cho Trans Am và có thể được đặt hàng với tất cả các tùy chọn có sẵn cho Trans Am, ngoại trừ ốp chắn bùn, hốc gió và bộ tản nhiệt chắn bùn. Phiên bản cơ sở Firebird được trang bị động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng 4,1L, công suất 155 mã lực.

Firebird Esprit và Firebird Formula được trang bị động cơ tiêu chuẩn 255 mã lực, dung tích 5,7L. Esprit có thể được nâng cấp lên động cơ chế hòa khí 2 xi-lanh 6,6L, công suất 265 mã lực trong khi Formula có thể được tùy chọn lắp động cơ L78 4 xi-lanh 400 công suất 330 mã lực hoặc động cơ L74 Ram Air III 400 công suất 345 mã lực.

Có 2 động cơ Ram Air 6,6 L có sẵn cho Trans Am 1970 được chuyển từ năm 1969: Động cơ L74 Ram Air III 400 công suất 335 mã lực và động cơ L67 Ram Air IV công suất 345 mã lực.

Đối với các mẫu xe năm 1970 và 1971, tất cả các xe Firebird được trang bị radio đều có ăng-ten được gắn "trong kính" ở kính chắn gió.

CHEVY CHEVELLE SS454 (1970 - 1972)

SS 454 là một mẫu xe “cơ bắp” (muscle car) nổi tiếng của Chevrolet, đặc biệt là phiên bản năm 1970 và là thế hệ thứ 2 của Chevy Chevelle.

Mẫu xe được biết đến với động cơ V8 454 inch khối (7,4L) là điểm nhấn, với 2 phiên bản chính là LS5 (360 mã lực) và LS6 (450 mã lực). Đây là mẫu xe được đánh giá cao về hiệu suất và thiết kế.

Chevelle SS 454 có thiết kế đặc trưng với nắp capo phồng lên, đường viền mái vuốt ngược và các chi tiết thể thao khác. Phiên bản Chevelle SS 454 năm 1970 được coi là một trong những mẫu xe “cơ bắp” đỉnh cao và được nhiều người yêu thích.

Phiên bản LS6 với bộ chế hòa khí bốn thùng Holley được coi là một trong những động cơ mạnh mẽ nhất từng được trang bị và được đánh giá cao trong lịch sử xe ô tô.

AMC JAVELIN (1971 - 1974)

AMC Javelin là mẫu xe 2 cửa mui cứng, dẫn động cầu sau, động cơ phía trước của Mỹ do American Motors Corporation (AMC) sản xuất qua 2 thế hệ, từ năm 1968 - 1970 và từ năm 1971 - 1974.

Được thiết kế bởi Dick Teague, Javelin có sẵn trong một loạt các mức độ trang trí và động cơ, từ xe ngựa tiết kiệm đến các biến thể “xe cơ bắp”. Ngoài việc sản xuất tại Kenosha, Wisconsin, Javelin còn được lắp ráp theo giấy phép tại Đức, Mexico, Philippines, Venezuela cũng như Australia và được tiếp thị trên toàn cầu.

Với động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng tiêu chuẩn, Javelin đạt tốc độ 129km/h khi được trang bị hộp số tự động. Để so sánh, những chiếc xe sử dụng động cơ V8 290 cu-in (4,8L) cơ bản có tốc độ tối đa 161km/h.

Hộp số tự động 3 cấp "Shift-Command" là tùy chọn với bộ chọn số gắn trên bảng điều khiển trung tâm. Các chế độ số tiến bao gồm "1", "2" và "D" hoàn toàn tự động, người lái có thể chọn sang số bằng tay qua cả 3 cấp số.

Javelin đã giành chiến thắng trong loạt cuộc đua Trans-Am vào các năm 1971, 1972 và 1976. Biến thể AMX thế hệ thứ 2 là mẫu xe “cơ bắp” đầu tiên được một cơ quan thực thi pháp luật Mỹ sử dụng làm phương tiện tiêu chuẩn cho nhiệm vụ xe cảnh sát đường bộ.

Mẫu Javelin năm 1971 trở thành mẫu xe hiệu suất AMC được mong đợi nhất trong thập kỷ này.

FORD MUSTANG (1971 - 1973)

Ford Mustang là một dòng xe hơi Mỹ do Ford sản xuất liên tục từ năm 1964, Mustang hiện là dòng xe Ford được sản xuất lâu nhất.

Hiện đang ở thế hệ thứ 7, đây là dòng xe Ford bán chạy thứ 5. Là tên gọi của phân khúc xe "ngựa con", Mustang được phát triển như một dòng xe coupe và mui trần thể thao được thiết kế cao cấp, bắt nguồn từ các dòng xe hiện có, ban đầu được phân biệt bởi tỷ lệ "mui xe dài, sàn xe ngắn".

Ford Mustang đời 1971 - 1973 là một phần của thế hệ đầu tiên (1964 - 1973) của dòng xe Mustang. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là thiết kế được mở rộng, kích thước lớn hơn và động cơ mạnh mẽ hơn, chịu ảnh hưởng của Bunkie Knudsen, người từng làm việc tại Pontiac.

Động cơ cũng được nâng cấp, với các tùy chọn mạnh mẽ hơn, đáp ứng nhu cầu của khách hàng muốn có một chiếc xe thể thao mạnh mẽ. Mặc dù có kích thước lớn hơn, Mustang 1971 - 1973 vẫn được coi là một phần của dòng xe pony (pony car) và là một phần của phân khúc xe thể thao cỡ nhỏ.

Mustang đã nhận được một số giải thưởng từ ngành công nghiệp ô tô trong năm đầu tiên, bao gồm "Xe của năm" của tạp chí Motor Trends, xe an toàn cho cuộc đua Indianapolis 500 năm 1964 của Giải thưởng Thiết kế Tiffany.

FORD TORINO 1972

Là mẫu ô tô được Ford sản xuất cho thị trường Bắc Mỹ từ năm 1968 - 1976. Đây là đối thủ cạnh tranh trong phân khúc thị trường trung gian và về cơ bản là “song sinh” với dòng Mercury Montego.

Cũng giống như Ford LTD là phiên bản cao cấp của Ford Galaxie, Torino ban đầu là một phiên bản cao cấp của Ford Fairlane cỡ trung . Trong các năm 1968 và 1969, dòng xe Ford cỡ trung bao gồm các mẫu Fairlane cỡ thấp và các dòng con của nó, tức các mẫu Torino cỡ cao.

Năm 1970, Torino trở thành tên gọi chính thức cho dòng xe cỡ trung của Ford và Fairlane giờ đây là một dòng con của Torino. Năm 1971, cái tên Fairlane bị loại bỏ hoàn toàn và tất cả các mẫu xe cỡ trung của Ford đều được gọi là Torino.

Vào năm 1972, Torino được thiết kế lại, sử dụng nhiều đặc điểm kế thừa từ thế hệ trước. Torino 1972 nhấn mạnh vào kiểu dáng "mui xe dài, sàn ngắn" và mang đậm dấu ấn “chai Coca-Cola”. Dòng xe Torino được cải tiến với 3 mẫu "Torino", "Gran Torino" và "Gran Torino Sport".

Động cơ cơ sở là loại 250 cu-in (4,1L) 6 xi-lanh thẳng hàng trong tất cả các mẫu xe, ngoại trừ xe ga Gran Torino Squire và Gran Torino Sport sử dụng động cơ V8 khối nhỏ 302-2V. Động cơ hiệu suất duy nhất cho năm 1972 là 351-4V CJ.

351-4V CJ cung cấp một số tính năng nâng cao hiệu suất không có trên 351C-4V 1970–71. Nó bao gồm một ống nạp đặc biệt, trục cam được sửa đổi, lò xo van và bộ giảm chấn đặc biệt, bộ chế hòa khí Motorcraft 750 CFM, nắp ổ trục chính 4 bu lông và ống xả kép 63,5mm.

Ống xả kép và tùy chọn hộp số 4 cấp là độc quyền cho 351-CJ. Hệ thống nạp khí Ram Air đã có sẵn trong thời gian ngắn vào đầu năm mẫu xe và có thể được trang bị trên xe ô tô sử dụng động cơ 351 CJ và 429.

Nhìn chung, Torino 1972 là một thành công về mặt doanh số và tổng cộng 496.645 chiếc đã được xuất xưởng khiến nó trở thành mẫu xe trung gian bán chạy nhất năm 1972. Đây là lần đầu tiên Ford vượt mặt Chevrolet Chevelle kể từ khi ra mắt năm 1964.

Consumer Guide (trang web chuyên cung cấp các bài đánh giá, xếp hạng và thông tin về hàng hóa, dịch vụ nhằm giúp người tiêu dùng đưa ra quyết định mua sắm thông minh) đã chọn Torino là "Sản phẩm mua tốt nhất" năm 1972.

PLYMOUTH BARRACUDA 1974

Plymouth Barracuda là loại xe “cơ bắp” 2 cửa được Chrysler Corporation sản xuất từ năm 1964 - 1974.

Barracuda thế hệ đầu tiên dựa trên Chrysler A-body và được cung cấp từ năm 1964 - 1966. Là mẫu xe mui cứng 2 cửa (không có trụ B) kiểu dáng fastback, xe có phần lớn các bộ phận và thân xe giống với Plymouth Valiant ngoại trừ kính sau bao quanh đặc trưng.

Barracuda thế hệ thứ 2 mặc dù vẫn dựa trên Valiant đã được thiết kế lại đáng kể. Được sản xuất từ năm 1967 - 1969, xe có sẵn các phiên bản 2 cửa fastback: Notchback và mui trần.

Thế hệ thứ 3, ra mắt từ năm 1970 - 1974, dựa trên mẫu Chrysler E-body độc quyền của hãng và mẫu Dodge Challenger lớn hơn một chút. Với thiết kế hoàn toàn mới, Barracuda 2 cửa có sẵn với cả kiểu mui cứng và mui trần.

Plymouth Barracuda 1974, một mẫu xe cổ điển được săn đón, nổi tiếng với thiết kế thể thao và gắn liền với sự kết thúc của một kỷ nguyên xe “cơ bắp”. Sản lượng đã giảm đáng kể so với những năm trước, chỉ còn 11.734 chiếc Barracuda và “Cudas” được sản xuất. Điều này khiến Barracuda 1974 trở nên hiếm có hơn, đặc biệt là khi còn trong tình trạng tốt.

CHEVROLET LAGUNA S-3 (1973 - 1976)

Chevrolet Chevelle Laguna là mẫu ô tô cỡ trung do Chevrolet sản xuất cho các mẫu xe từ năm 1973 - 1976. Là một phần của nền tảng GM A-Body, dòng xe Laguna năm 1973 bao gồm các mẫu xe coupe, sedan và station wagon.

Đây là dòng xe Chevelle hàng đầu trong năm đó, xếp trên Malibu. Trong giai đoạn từ năm 1974 - 1976, mẫu xe được sản xuất dưới dạng một mẫu xe coupe Laguna S-3, dòng xe Malibu Classic mới ra mắt năm 1974 chiếm vị trí hàng đầu trong dòng xe hạng sang.

Đến năm 1974, Laguna được đổi tên thành "Laguna Type S-3" và chỉ được cung cấp dưới dạng phiên bản coupe Colonnade. Xe vẫn giữ nguyên phần đầu xe bằng urethane từ năm 1973 với lưới tản nhiệt được thiết kế lại và đèn đỗ xe mới, được bổ sung đèn hậu mới ở phía sau. Cản sau mạ crôm đạt tốc độ 8km/h theo quy định đã thay thế phiên bản thép cùng màu thân xe 4km/h từ năm 1973.

Các tùy chọn động cơ bao gồm động cơ V8 2 thùng 350 công suất tiêu chuẩn 145 mã lực, với các tùy chọn động cơ bao gồm động cơ V8 2 thùng 400 công suất 150 mã lực, động cơ V8 4 thùng 400 công suất 175 mã lực và động cơ V8 4 thùng 454 công suất 235 mã lực. Ngoại trừ tại California, nơi động cơ V8 4 thùng 350 công suất 155 mã lực là tiêu chuẩn và động cơ 400 và 454 là tùy chọn.

Hộp số Turbo Hydra-matic là tiêu chuẩn với hộp số sàn 4 cấp chỉ có sẵn với động cơ 454. Mã lực dường như thấp hơn do cách tính mã lực "ròng" bắt đầu từ năm 1972 trái ngược với xếp hạng mã lực "tổng" của năm 1971 và những năm trước đó.

Tóm lại, Chevrolet Laguna S-3 là một mẫu xe hiệu suất cao, được thiết kế để cạnh tranh trong các giải đua NASCAR với thiết kế khí động học và nhiều tùy chọn động cơ mạnh mẽ.

FORD FAIRMONT 1978

Là dòng xe ô tô nhỏ gọn được Ford sản xuất từ năm 1978 - 1983. Là mẫu xe kế nhiệm của Ford Maverick, Fairmont đánh dấu thế hệ thứ 3 của dòng xe sedan nhỏ gọn được Ford bán ra tại Bắc Mỹ.

Ban đầu được xếp giữa Pinto và Granada trong dòng xe Ford, Fairmont sau đó được tiếp thị giữa Ford Escort và Ford LTD. Trái ngược với mẫu xe tiền nhiệm (chỉ được cung cấp dưới dạng xe sedan 2 hoặc 4 cửa), dòng xe này được cung cấp dưới dạng xe sedan notchback 2 cửa, xe coupe 2 cửa, xe sedan 4 cửa và xe station wagon 5 cửa. Mặc dù chưa bao giờ được bán dưới dạng Lincoln, Mercury đã bán một mẫu xe tương tự Fairmont với tên gọi Mercury Zephyr.

Fairmont dựa trên nền tảng Ford Fox dẫn động cầu sau, sử dụng kết cấu thân liền khối bằng thép. Hệ thống treo trước độc lập bao gồm các tay đòn ngang dưới, thanh chống MacPherson và lò xo cuộn xoắn ốc.

Trong hệ thống mà Ford gọi là hệ thống thanh chống MacPherson cải tiến hoặc lai, các lò xo cuộn được lắp riêng biệt với các thanh chống thay vì đồng tâm, nằm giữa tay đòn dưới và thanh giằng ngang phía trước. Động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng 200 cu-in (3,3L) (dùng chung với Maverick và Granada) được cung cấp dưới dạng tùy chọn từ năm 1978 - 1983.

Mặc dù công suất thấp hơn động cơ 4 xi-lanh thẳng hàng 2,3 lít, động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng 3,3 lít lại tạo ra mô-men xoắn lớn hơn đáng kể. Năm 1978, hộp số tiêu chuẩn là hộp số sàn 3 cấp (thay thế bằng hộp số 4 cấp vào năm 1979); hộp số tự động 3 cấp cũng được cung cấp dưới dạng tùy chọn.

Fairmont 1978 được gọi là "dòng xe Ford (sedan) hiệu quả nhất từng được chế tạo xét về không gian trên trọng lượng".

CHEVROLET MALIBU 1978

Malibu là mẫu xe cỡ trung được Chevrolet sản xuất và tiếp thị từ năm 1964 - 1983 và từ năm 1997 - 2025.

Malibu bắt đầu là một phiên bản của Chevrolet Chevelle, trở thành dòng xe riêng vào năm 1978. Ban đầu là mẫu xe dẫn động cầu sau trung gian, GM đã hồi sinh tên gọi Malibu thành một mẫu xe dẫn động cầu trước vào năm 1997.

Được đặt theo tên của cộng đồng ven biển Malibu, California, mẫu xe đã được tiếp thị chủ yếu ở Bắc Mỹ, với thế hệ thứ 8 được giới thiệu trên toàn cầu. Malibu hiện là mẫu sedan cuối cùng được Chevrolet bán tại nước Mỹ.

Đối với mẫu xe năm 1978 (thế hệ thứ 4), tên Malibu, vốn là nhãn hiệu bán chạy nhất trong dòng sản phẩm, đã thay thế tên Chevelle. Đây là mẫu xe thứ 2 của Chevrolet có kích thước nhỏ hơn sau Chevrolet Caprice và Impala năm 1977.

Chỉ có 2 cấp độ trang trí được cung cấp - Malibu và Malibu Classic. Dòng Malibu Classic Landau có lớp sơn hai tông màu ở phần thân trên và dưới và mui xe bằng nhựa vinyl. Thế hệ này giới thiệu dòng động cơ Chevrolet 90° V6 với động cơ V6 200 CID (3,3L) là động cơ cơ sở cho chiếc Chevrolet Malibu 1978 hoàn toàn mới, cùng với động cơ V6 229 CID (3,8L) và động cơ V8 305 CID (5,0L) do Chevy chế tạo là tùy chọn.

Động cơ 200 và 229 về cơ bản là động cơ V8 khối nhỏ, với một cặp xi-lanh bị loại bỏ. Mặt trước và sau của vỏ động cơ giống với động cơ V8 cỡ nhỏ. Động cơ 231 là sản phẩm của Buick và có bộ chia điện phía trước.

Malibu là kiểu thân xe được sử dụng rộng rãi trong các cuộc thi NASCAR từ năm 1973 - 1983.

Có thể bạn quan tâm