Mới đây, Công ty Cổ phần Chứng khoán MB (MBS Research) đã công bố Báo cáo chiến lược năm 2024. Báo cáo cho biết, kết quả kinh doanh kém khả quan trong năm 2023 đã tạo ra một nền so sánh thấp cho tăng trưởng năm 2024.
Bên cạnh đó, với kỳ vọng tăng trưởng tín dụng sẽ khả quan cùng với NIM được cải thiện nhờ môi trường lãi suất thấp được duy trì, các chuyên viên phân tích cho rằng lợi nhuận sau thuế của hầu hết ngân hàng đều được kỳ vọng khả quan. Lợi nhuận sau thuế của các nhà băng mà MBS Research đang theo dõi dự báo sẽ tăng trưởng 25,1% so với cùng kỳ trong năm 2024.
Theo MBS Research, tín dụng cho nhóm khách hàng doanh nghiệp vẫn dẫn dắt trong 6 - 9 tháng tới. Trong 9 tháng đầu năm 2023, tăng trưởng tín dụng tập trung ở nhóm ngân hàng thương mại có quy mô lớn.
Những ngân hàng có mức tăng trưởng cao hơn trung bình ngành (8,9% so với đầu năm) bao gồm BIDV (9,2%), HDBank (11,5%), MB (13,7%), Techcombank (13,5%) và VPBank (17,1%) nhờ có danh mục khách hàng doanh nghiệp lớn, với nhu cầu tín dụng cao.
Trong khi đó, nhóm ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ và chuyên cho vay bán lẻ bị ảnh hưởng mạnh bởi tác động kép từ nhu cầu tín dụng yếu và chất lượng tài sản sa sút đã chủ động giảm tăng trưởng và tập trung xử lý nợ xấu.
MBS Research cho rằng xu hướng trên sẽ tiếp tục diễn ra trong quý 4/2023 cũng như hai quý đầu năm 2024 khi nhu cầu bán lẻ chưa thể phục hồi. Dòng tiền trả nợ yếu khiến nhóm khách hàng bán lẻ khó tiếp cận các chương trình giảm lãi suất của ngân hàng, từ đó khiến dòng vốn sẽ tìm đến các doanh nghiệp lớn với tình hình tài chính khả quan hơn.
TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG ƯỚC ĐẠT 13 - 14% TRONG NĂM 2024
Theo đánh giá của MBS Research, nền kinh tế Việt Nam đang cho thấy những tín hiệu khởi sắc, bao gồm GDP đang thể hiện xu hướng tích cực, Chính phủ đã ban hành những chính sách hỗ trợ, lãi suất cho vay giảm mạnh.
Từ những điều kiện trên, các chuyên viên phân tích cho rằng tăng trưởng tín dụng trong năm 2024 sẽ đạt 13 - 14%, trong khi GDP cả năm đạt 5,9%.
MBS Research nhận định rằng các hoạt động cho vay bán lẻ như cho vay tiêu dùng, mua nhà và mua xe sẽ được kích cầu mạnh mẽ trong môi trường lãi suất thấp. Doanh nghiệp bất động sản có thể tiến hành giảm giá các sản phẩm nhằm tiếp cận gần hơn với người mua thay vì ưu tiên lợi nhuận nhằm khơi thông dòng tiền khi mà các chính sách đang nới lỏng hơn trước, giúp kích thích dòng tín dụng.
Tương tự, hoạt động cho vay tiêu dùng và mua ô tô cũng sẽ có chính sách tương tự nhằm tận dụng quãng thời gian lãi suất thấp được duy trì. MBS kỳ vọng kịch bản này sẽ bắt đầu từ đầu quý 2/2024.
Quy mô phát hành trái phiếu doanh nghiệp suy giảm rõ rệt trong năm 2022 và kéo dài trong cả năm 2023 sau những vụ án liên quan đến Vạn Thịnh Phát, Tân Hoàng Minh… Tuy nhiên, xu hướng tích cực đã dần xuất hiện khi giá trị phát hành đến hết hết ngày 27/11 tăng 3,6% so với cả năm 2022.
Do đó, MBS Research cho rằng hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ khả quan hơn trong năm 2024, đạt 2,3% tổng dư nợ của các ngân hàng (quý 3/2023 là 2,1%).
NIM SẼ PHỤC HỒI TỪ QUÝ 4/2023 VÀ TĂNG NHẸ TRONG NĂM 2024
Theo các chuyên viên phân tích, đà giảm của biên lãi thuần (NIM) đã có sự chậm lại trong quý 3/2023. Mức lãi suất huy động toàn hệ thống hiện nay đang thấp hơn so với đáy trong giai đoạn Covid-19, mặc dù lãi suất điều hành đang cao hơn 50 điểm cơ bản.
MBS Research cho rằng điều này sẽ giúp giảm đáng kể chi phí vốn của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới. NIM cả năm 2023 được dự báo sẽ giảm nhẹ so với 2022.
Trong bối cảnh các giải pháp của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đều xoay quanh việc tháo gỡ khó khăn dòng tiền cho doanh nghiệp giúp nền kinh tế tiếp cận được vốn vay tín dụng, MBS Research cho rằng mặt bằng lãi suất thấp là yếu tố bắt buộc phải được duy trì trong ít nhất 6 đến 9 tháng tới.
Mặt bằng lãi suất huy động thấp được đánh giá là cơ hội để các ngân hàng gia tăng NIM. Tuy nhiên, việc giữ lãi suất cho vay thấp cũng sẽ là yếu tố then chốt để các ngân hàng thương mại nhận được hạn mức (room) tín dụng cao và gia tăng cạnh tranh trong bối cảnh nhu cầu tín dụng chưa có dấu hiệu phục hồi rõ ràng.
Do đó, MBS Research kỳ vọng NIM trong năm 2024 của hầu hết các ngân hàng chỉ tăng nhẹ so với 2023 và sẽ không cao như cả năm 2022. Đặc biệt, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước được dự báo sẽ không có được sự phục hồi NIM tốt như các ngân hàng thương mại cổ phần trong năm 2024 do hoạt động dưới vai trò là những công cụ điều tiết.
RỦI RO NỢ XẤU VÀ ÁP LỰC TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG VẪN HIỆN HỮU
Tỷ lệ nợ xấu (NPL) toàn ngành tại quý 3/2023 đạt 2,2%, tăng 64 điểm cơ bản so với 2022 và là mức NPL cao nhất từ năm 2015. Hầu như tất cả các ngân hàng đều tiếp tục ghi nhận tỷ lệ NPL gia tăng so với đầu năm và các quý liền trước.
Song song với đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cũng suy giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối năm 2020, còn 93,8% vào cuối quý 3/2023. LLR của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước đang cao hơn đáng kể so với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần.
Trong bối cảnh trên, MBS Research kỳ vọng NPL toàn ngành sẽ tăng nhẹ 10 - 20 điểm cơ bản và đạt đỉnh trong quý 4/2023. Ngoài ra, việc sử dụng một lượng lớn trích lập dự phòng trong 9 tháng 2023 để xử lý nợ xấu cũng góp phần giúp NPL các ngân hàng suy giảm.
Mặc dù nợ xấu được kỳ vọng tạo đỉnh trong quý 4/2023 và chi phí trích lập toàn ngành đang có xu hướng tích cực (quý 1/2023 tăng 16,1% nhưng 9 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 5,4% so với cùng kỳ) nhưng áp lực trích lập dự phòng trong năm 2024 vẫn là đáng kể.
Nguyên nhân MBS Research đưa ra đến từ việc dư địa trích lập của các ngân hàng sẽ không còn nhiều khi kết quả kinh doanh cả năm 2023 được dự báo sẽ kém khả quan, do đó khi hiệu lực của Thông tư 02 hết hạn vào 30/6/2024 (đang được Ngân hàng Nhà nước cân nhắc gia hạn) áp lực trích lập cho các khoản nợ tái cơ cấu hoặc các khoản nợ xấu không được tái cơ cấu sẽ gia tăng.
“Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng áp lực này sẽ có sự phân hóa rõ nét giữa các ngân hàng. Những ngân hàng đã gia tăng trích lập lớn trong năm 2023 và đưa chất lượng tài sản về mức thấp có thể sẽ có nhiều dư địa để xử lý hơn, và do đó sẽ có được lợi thế tăng trưởng lợi nhuận cao hơn”, các chuyên gia MBS Research phân tích.