Một số mẫu xe có thiết kế tuyệt vời, công nghệ tiên tiến đã định hình biểu tượng phong cách thập niên 1970 và tiếp tục ảnh hưởng đến thiết kế xe ô tô ngày nay. Thiết kế hình nêm, đèn pha bật lên hay sự xuất hiện của siêu xe... chỉ là một vài xu hướng xuất hiện trên đường phố ở thời điểm này nhưng nó đã làm thay đổi hiện trạng và khiến những năm 1970 trở nên “dễ chịu” hơn.
Alfa Romeo Montreal - 1970
Alfa Romeos chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim của mọi người đam mê xe. Mẫu xe đẹp, động cơ nghe tuyệt vời và chúng có “tính khí thất thường”. Danh tiếng đáng sợ về độ tin cậy đã khiến việc sở hữu và lái một chiếc Alfa trở nên thú vị hơn nhiều.
Đa phần những người sở hữu một chiếc Alfa Romeo vì nó là một “tác phẩm nghệ thuật”. Và một trong những chiếc xe đẹp nhất ở những năm 1970 là chiếc Montreal.
Được trang bị động cơ V8 2,6 lít tạo ra công suất hơn 200 mã lực, chiếc Montreal sử dụng hệ thống truyền động từ một chiếc xe đua nguyên mẫu thể thao và khung gầm từ chiếc Guilia GTV mang tính biểu tượng.
Citroën SM - 1970
Người Pháp tạo nên một chiếc ô tô theo cách khác. Họ không “sao chép” bất kỳ ai, điều đó có nghĩa là những chiếc xe được tạo ra cực kỳ sáng tạo và đột phá. Một kiệt tác như vậy xuất hiện vào những năm 1970 từ nhà sản xuất Citroën của Pháp là SM.
Đây là phiên bản coupe thể thao của chiếc sedan DS mang tính cách mạng. Một mẫu xe không giống bất kỳ mẫu nào, không lái giống bất kỳ mẫu nào khác và chắc chắn không có cảm giác giống bất kỳ mẫu nào khác.
SM được trang bị đầy đủ công nghệ phổ biến hiện nay, nhưng vào những năm 1970 thì hoàn toàn là kỷ nguyên “vũ trụ”. Hệ thống treo tự cân bằng, đèn pha tự cân bằng xoay theo bánh xe và hệ thống lái trợ lực biến thiên chỉ là một vài tính năng của mẫu xe này.
Mercedes-Benz C111-11D - 1970
C111 là loạt xe ô tô thử nghiệm do Daimler-Benz sản xuất vào những năm 1960 và 1970. Công ty đã thử nghiệm các công nghệ động cơ mới bao gồm động cơ Wankel, động cơ diesel và bộ tăng áp. Sử dụng nền tảng C111 cơ bản làm nền tảng thử nghiệm. Các tính năng thử nghiệm khác bao gồm hệ thống treo sau đa liên kết, cửa cánh chim, nội thất sang trọng với viền da và điều hòa không khí.
Phiên bản đầu tiên của C111 được hoàn thiện vào năm 1969 và được giới thiệu tại IAA 1969 ở Frankfurt (Đức). Mẫu xe sử dụng vỏ thân bằng sợi thủy tinh và động cơ Wankel phun nhiên liệu trực tiếp 3 rô-to gắn giữa (mã hiệu là M950F). Chiếc C111 tiếp theo xuất hiện vào năm 1970; nó được trưng bày tại Triển lãm ô tô quốc tế Geneva. Nó sử dụng động cơ 4 rô-to sản sinh công suất 349 mã lực.
Công ty quyết định không áp dụng động cơ Wankel và chuyển sang thử nghiệm động cơ diesel cho C111 thứ 2 và thứ 3. Động cơ của C111-IID là Mercedes-Benz OM 617 và sản sinh công suất 188 mã lực ở 4.200 vòng/phút. Nó dựa trên biến thể OM 617 85 kW của Mercedes-Benz được sử dụng trong Mercedes-Benz W 116 S-Class, nhưng có bộ tăng áp khác không có cửa xả, cho phép tăng tỷ số áp suất lên 3,3. Daimler-Benz cũng bổ sung thêm bộ làm mát trung gian giúp cải thiện đáng kể hiệu suất nhiệt của động cơ
Phiên bản V8 tăng áp kép KKK 4,5 L sau này sản sinh công suất 493 mã lực ở tốc độ 6.000 vòng/phút đã lập một kỷ lục khác, với tốc độ vòng đua trung bình là 403,78km/h. Kỷ lục này được Hans Liebold đạt được trong 1 phút, 56,67 giây vào ngày 5/5/1979.
Ford Mustang Mach 1 - 1970
Ford Mustang Mach 1 là sự kết hợp giữa hiệu suất và ngoại hình được cung cấp như một tùy chọn cho Ford Mustang vào tháng 8/1968 cho mẫu xe năm 1969.
Ford Mustang 1969 có nhiều tên mẫu xe và động cơ theo chủ đề hiệu suất. Có 6 mẫu Mustang hiệu suất tại nhà máy (GT, Boss 302, Boss 429, Shelby GT350, Shelby GT500 và Mach 1). Ngoài ra, 7 biến thể động cơ V8 có sẵn trong các mẫu xe từ năm 1969 đến năm 1973; hầu hết trong số này cũng có sẵn trong Mach 1 mới.
Do sự thành công của Mach 1, mẫu GT đã bị ngừng sản xuất sau năm 1969 do doanh số bán ra kém chỉ đạt 5.396 chiếc so với doanh số bán ra là 72.458 chiếc của Mach 1. Gói Mach 1 chỉ có sẵn trong kiểu thân xe fastback "SportsRoof" (trước đây được gọi là fastback).
Trang bị tiêu chuẩn là động cơ Windsor (351W) 2V 2 thùng 351 cu in (5,8L) với hộp số sàn 3 cấp và trục sau mở 28 rãnh 23cm. Động cơ 351W 4V 4 thùng là tùy chọn cũng như động cơ FE 390 cu in (6,4L) và động cơ Cobra Jet 4V 428 cu in (7,0L) có hoặc không có Ram Air cùng tùy chọn "gói kéo" với động cơ Super Cobra Jet 428 cu in (7,0L) đã được sửa đổi.
Hộp số sàn 4 cấp hoặc hộp số tự động FMX (khối nhỏ)/C6 (khối lớn) 3 cấp là tùy chọn và 428SCJ đã bổ sung trục đuôi bằng gang thay cho trục đuôi bằng nhôm thông thường cho C6. Đây chính là một trong những chiếc xe “tuyệt vời” nhất từng lăn bánh trên đường phố với sức mạnh, sự hào hoa và uy tín không thể chối cãi.
Lancia Stratos Zero - 1970
Lancia Stratos Zero hay Lancia Stratos HF Zero là một mẫu xe thể thao ý tưởng grand tourer của các nhà sản xuất ô tô Bertone và Lancia (Italia). Nó được giới thiệu tại Triển lãm ô tô Turin năm 1970 trước Lancia Stratos sản xuất 3 năm. Hiện tại nó thuộc sở hữu của Phillip Sarofim.
Kiểu dáng thiết kế khoa học viễn tưởng hình thang góc cạnh “siêu tương lai” cực kỳ thấp và có hình dạng khí động học với chiều cao chỉ 84cm. Thân xe được làm bằng sợi thủy tinh với tông màu đồng nguyên bản. Hình dạng thân sau fastback, vô lăng có thể thu vào để dễ dàng tiếp cận buồng lái, cửa kính chắn gió phía trước có thể mở lật. Bảng đồng hồ đo nằm trên màn hình điều khiển kỹ thuật số, đây là một tầm nhìn xa vào thời điểm đó.
Mẫu xe được trang bị động cơ Lancia V4 lắp giữa phía sau từ Lancia Fulvia HF1600 Rally, dung tích 1,6 lít và công suất 86 kW (115 PS; 113 mã lực). Nếu thiết kế xe hơi của những năm 1970 có thể được tóm tắt trong một chiếc xe ý tưởng thì chỉ có thể là Stratos Zero.
Plymouth “Siêu chim” - 1970
Plymouth Superbird là phiên bản được cải tiến rất nhiều, tồn tại trong thời gian ngắn của Plymouth Road Runner với hình ảnh đồ họa được áp dụng cũng như âm thanh còi đặc biệt. Được phát triển dành riêng cho giải đua NASCAR, Superbird, một chiếc Road Runner đã được cải tiến là thiết kế tiếp theo của Plymouth cho Charger Daytona do công ty “chị em” Dodge đưa ra vào mùa giải 1969.
Superbird có 3 tùy chọn: Động cơ 426 Hemi V8 sản sinh công suất 425 mã lực (431 PS; 317kW) tại 5.000 vòng/phút và mô-men xoắn 490 lb⋅ft (664 N⋅m) tại 4.000 vòng/phút; 440 Super Commando Six Barrel với bộ chế hòa khí 3x2 thùng sản sinh công suất 390 mã lực và 440 Super Commando 375 mã lực với bộ chế hòa khí 4 thùng duy nhất.
Câu chuyện về sự “ra đời” của Plymouth Superbird đã quá nổi tiếng. Chỉ có 135 mẫu xe được trang bị động cơ 426 Hemi vì chi phí sản xuất động cơ 440 rẻ hơn nên phiên bản "đường phố" của động cơ 426 Hemi dùng trong cuộc thi đã được chấp thuận bằng cách sản xuất số lượng tối thiểu theo yêu cầu.
Hiếm nhất trong số những mẫu xe từng được xuất xưởng là chiếc Superbird được trang bị động cơ 426 HEMI V8, một cỗ máy mạnh mẽ 425 mã lực có thể đưa mẫu xe khổng lồ này tăng tốc từ 0 - 100km/h trong 5,5 giây.
Ferrari 512 S Modulo - 1970
Ferrari 512S Modulo là mẫu xe thể thao ý tưởng được thiết kế bởi Paolo Martin của hãng xe Pininfarina (Italia) và được ra mắt tại Triển lãm ô tô Geneva năm 1970.
Modulo có thân xe cực kỳ thấp và hình nêm, với mái kính kiểu mái che trượt về phía trước để cho phép ra vào cabin xe. Cả 4 bánh xe đều được che một phần. Một đặc điểm đặc biệt khác của thiết kế là 24 lỗ trên nắp “lộ” ra động cơ Ferrari V12 sản sinh công suất 550 mã lực để đẩy Modulo lên tốc độ tối đa khoảng 354km/h và khả năng tăng tốc từ 0 - 100km/h trong khoảng 3,0 giây.
Modulo ban đầu là một chiếc Ferrari 512S (khung gầm, động cơ số 27) và được chuyển đổi thành thông số kỹ thuật 612 Can Am. Sau khi thử nghiệm, động cơ cùng hộp số đã được tháo ra và khung gầm cũng được tháo rời và giao cho Pininfarina để chế tạo một chiếc xe trưng bày. Mẫu xe trưng bày đã ra mắt tại Triển lãm ô tô Geneva năm 1970 ban đầu được sơn màu đen, nhưng sau đó được sơn lại màu trắng.
Ferrari 512 S Modulo đã được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt và đã giành được 22 giải thưởng cho thiết kế của mình.
Stutz Blackhawk - 1970
Stutz Blackhawk là mẫu xe hạng sang của Mỹ được sản xuất từ năm 1971 đến năm 1987. Ngoài cái tên, nó không có điểm nào giống với chiếc Blackhawk nguyên bản (1929 - 1930).
Blackhawk ra mắt vào tháng 1/1970 tại Waldorf Astoria ở Thành phố New York (Mỹ). Việc sản xuất hàng loạt bắt đầu vào năm 1970; thiết kế ban đầu (Series I) có kính chắn gió chia đôi và được làm thủ công tại Officine Padane ở Modena (Italia). Từ năm 1972, với Series II, việc sản xuất bắt đầu tại Carrozzeria Saturn ở Cavallermaggiore, gần Torino.
Với thân xe bằng thép siêu nặng, Blackhawk dài gần 6m. Những chiếc Blackhawk sản xuất sử dụng hệ thống truyền động Pontiac Grand Prix, động cơ V8 7,5L của Pontiac, hộp số tự động 3 cấp GM TH400 và hệ dẫn động cầu sau.
Với động cơ được điều chỉnh để sản sinh công suất 425 mã lực và mô-men xoắn 420 lb⋅ft (569N⋅m), chiếc Blackhawk nặng 2.300kg có thể tăng tốc lên 100km/h trong hơn 8,4 giây với tốc độ tối đa 209km/h, đạt mức tiêu thụ nhiên liệu 30l/100km.
Thiết kế của mẫu xe bao gồm một lốp dự phòng nhô ra qua nắp cốp và đèn pha độc lập. Nắp đổ nhiên liệu được đặt bên trong lốp dự phòng trên các mẫu xe đầu tiên. Nội thất bao gồm viền mạ vàng 24 carat, gỗ thích mắt chim hoặc óc chó burled hay gỗ đỏ, ghế và táp lô bọc da Connolly, vạch chỉ số bằng tiếng Anh và tiếng Italia, thảm và trần xe bằng len mịn hoặc lông chồn, bật lửa xì gà, tủ đựng rượu ở phía sau.
Những mẫu Blackhawk sau này sử dụng động cơ Pontiac 403 và 350 V8. Ngoài ra còn sử dụng động cơ Ford, Chevrolet và Cadillac. Chiếc Blackhawk được chế tạo thủ công này được phủ 18 đến 22 lớp sơn mài và mất 6 tuần để hoàn thiện. Tổng thời gian sản xuất cho mỗi chiếc xe là hơn 1.500 giờ làm việc.
Đã có rất nhiều người nổi tiếng sở hữu mẫu xe này, đặc biệt nhất là ca sĩ, diễn viên Elvis Presley (mua mẫu xe này vào ngày 9/10/1970 với giá 26.500 đô la vào thời điểm đó). Đồng thời, mỗi chiếc xe đều có một tấm biển ghi tên chủ sở hữu ban đầu.
Maserati Boomerang - 1971
Maserati Boomerang là một mẫu xe ý tưởng được thiết kế bởi Giorgetto Giugiaro và sản xuất bởi Italdesign. Lần đầu tiên nó được tiết lộ tại Triển lãm ô tô Turin năm 1971 như một mẫu xe Epowood không có chức năng, nhưng đến Triển lãm ô tô Geneva năm 1972, nó đã dựa trên khung gầm Maserati Bora như một mẫu xe độc nhất.
Thiết kế của Boomerang sẽ cộng hưởng qua các thiết kế tương lai của Giugiaro trong nhiều năm. Các góc cạnh sắc nét và hình nêm của nó có thể dễ dàng nhận ra trong mẫu xe ý tưởng Audi Asso di Picche năm 1973, VW Passat Mk1 năm 1973 hay Lotus Esprit và Medici II năm 1976...
Boomerang được trang bị động cơ V8 4.7L sản sinh công suất 310 mã lực và mô-men xoắn 460 N⋅m (339 lb⋅ft), dẫn động bánh sau kết hợp với hộp số sàn 5 cấp. Nội thất có bố cục bảng điều khiển độc đáo , trong đó vô lăng và cụm đồng hồ là một phần của bảng điều khiển duy nhất nhô ra, vô lăng xoay quanh các đồng hồ cố định.
Nội thất của mẫu xe cũng hoang dã như ngoại thất vì thế nó không bao giờ được thiết kế để lăn bánh trên đường phố.
De Tomaso Pantera - 1971
De Tomaso Pantera là một chiếc xe thể thao động cơ giữa được xuất xưởng bởi nhà sản xuất ô tô De Tomaso (Italia) từ năm 1971 đến năm 1992.
Mẫu xe ra mắt tại Modena vào tháng 3/1970 và được giới thiệu tại Triển lãm ô tô New York năm 1970 vài tuần sau đó. Khoảng một năm sau, những mẫu xe sản xuất đầu tiên đã được bán ra và sản lượng được tăng lên 3 chiếc mỗi ngày.
Các mẫu Pantera đầu tiên năm 1971 được trang bị động cơ Ford Cleveland V8 5,8L có công suất đầu ra là 330 mã lực. Mô-men xoắn cao do động cơ Ford cung cấp đã làm giảm nhu cầu chuyển số quá mức ở tốc độ thấp.
Hộp số ZF được sử dụng trong Mangusta cũng được gắn cho Pantera. Trong khi đó, một chiếc xe của Italia khác sử dụng hộp số ZF là Maserati Bora cũng được ra mắt vào năm 1971. Phanh đĩa 4 bánh trợ lực và hệ thống lái thanh răng và bánh răng đều là trang bị tiêu chuẩn trên Pantera. Pantera 1971 có thể tăng tốc lên 100km/h trong 5,5 giây.
Lancia Stratos HF - 1973
Tipo 829 hay Lancia Stratos, là một chiếc xe thể thao động cơ giữa phía sau được thiết kế cho cuộc đua rally do nhà sản xuất ô tô Lancia (Italia) thiết kế.
Mẫu xe đã rất thành công trong cuộc thi, giành chức vô địch World Rally vào các năm 1974, 1975 và 1976. Giành chiến thắng tại Targa Florio năm 1974, 5 lần giành chiến thắng tại Tour de France Automobile và Giro d'Italia automobilistico 3 lần.
Nguyên mẫu Stratos HF (Chassis 1240) có màu đỏ huỳnh quang và có kính chắn gió hình lưỡi liềm bao quanh. Điều này cung cấp tầm nhìn tối đa về phía trước nhưng hầu như không có tầm nhìn phía sau. Nguyên mẫu có 3 loại động cơ khác nhau trong giai đoạn đầu phát triển: Động cơ Lancia Fulvia, động cơ Lancia Beta và động cơ Dino Ferrari V6 lắp giữa sản sinh công suất 190 mã lực khi chạy trên đường.
Lancia Stratos HF - 1973 được trang bị động cơ Dino 2.4 L V6 tạo công suất đầu ra là 188 mã lực tại 7.000 vòng/phút và mô-men xoắn 226 N⋅m tại 4.000 vòng/phút. Hiệu suất này giúp mẫu xe tại đường trường có thời gian tăng tốc từ 0 - 100km/h là 6,8 giây và tốc độ tối đa là 232km/h.
Stratos là một chiếc xe đua rally thành công trong những năm 1970 và đầu những năm 1980. Nó đã mở ra một kỷ nguyên mới trong cuộc đua rally vì đây là chiếc xe đầu tiên được thiết kế từ đầu cho loại hình thi đấu này.
Chỉ có 492 chiếc được xuất xưởng khiến Stratos trở nên “cực kỳ hiếm” và đáng mơ ước cho đến tận ngày nay.
Lamborghini Countach LP400 - 1974
Là mẫu xe thể thao dẫn động cầu sau, động cơ đặt giữa do hãng sản xuất ô tô Lamborghini (Italia) trình làng từ năm 1974 - 1990. Đây là một trong nhiều thiết kế kỳ lạ do hãng thiết kế Bertone, hãng tiên phong và phổ biến hình dạng "Italian Wedge" góc cạnh sắc nét.
Lamborghini đã sử dụng hệ thống ký hiệu chữ và số để phân định rõ hơn các mẫu xe Countach. Ký hiệu này bắt đầu bằng "LP", viết tắt từ tiếng Italia: Longitudinale posteriore, có nghĩa là "phía sau theo chiều dọc". Điều này ám chỉ hướng và vị trí động cơ được chia sẻ bởi tất cả các mẫu xe Countach.
Đối với nguyên mẫu và các mẫu xe sản xuất ban đầu, "LP" được theo sau bởi một số gồm 3 chữ số biểu thị dung tích động cơ danh nghĩa, "400" cho động cơ 3,9 lít và "500" cho động cơ 4,8 và 5 lít. Do đó, tên đầy đủ của mẫu xe Countach sản xuất đầu tiên là Lamborghini Countach LP400. Giống như Miura, chữ cái "S" (viết tắt của Sport) được thêm vào cho các biến thể hiệu suất cao sau này.
LP400 được trang bị động cơ 3,9L cung cấp công suất 370 mã lực, động cơ này được đặt tên loại là "L406". Bên ngoài, ít thay đổi so với nguyên mẫu thứ 2, tấm chắn mũi đã được thay đổi, các cửa sổ bên giờ được chia theo chiều ngang và nhiều chi tiết trang trí nội thất khác nhau cũng được thay đổi.
Khung xe LP400 được Marchesi chế tạo, sau đó chuyển đến nhà máy Lamborghini tại Sant'Agata, nơi chiếc xe được lắp ráp và sơn. Động cơ và hộp số cũng được sản xuất tại Sant'Agata. Mỗi động cơ được chạy tổng cộng 5 giờ và được kiểm tra trước khi lắp vào xe. Dây chuyền sản xuất LP400 được phát triển và giám sát bởi Giancarlo Guerra, một cựu nhân viên của Scaglietti, người đã làm việc chặt chẽ với Stanzani. Đến cuối quá trình sản xuất vào năm 1978, công ty đã xuất xưởng được 157 chiếc Countach LP400.
Đây chính là một trong những siêu xe vĩ đại nhất từng được chế tạo.
Jaguar XJS - 1975
Jaguar XJ-S là mẫu xe du lịch hạng sang được sản xuất và tiếp thị bởi nhà Jaguar Cars (Anh) từ năm 1975 - 1996, với kiểu thân xe coupé, cố định và mui trần hoàn toàn. Có 3 phiên bản khác nhau, với tổng sản lượng cuối cùng là 115.413 chiếc trong 20 năm và 7 tháng.
Sức mạnh đến từ động cơ Jaguar V12 với tùy chọn hộp số sàn hoặc hộp số tự động nhưng hộp số sàn đã sớm bị loại bỏ vì chúng còn sót lại từ quá trình sản xuất V12 E Type. Chúng ta nên nhớ rằng, những chiếc ô tô sản xuất chạy bằng động cơ V12 là điều bất thường vào thời điểm đó.
Các thông số kỹ thuật của XJ-S có thể sánh ngang với Lamborghini và Ferrari. Nó có thể tăng tốc lên 100km/h trong 7,7 giây (các mẫu xe tự động) và có tốc độ tối đa 230km/h. Dòng xe XJ-S đầu tiên có hộp số BorgWarner Model 12 với vỏ gang và vỏ chuông bu lông.
Năm 1977, hộp số Turbo-Hydramatic 400 của General Motors đã được lắp. Hộp số TH400 là hộp hợp kim hoàn toàn bằng nhôm với vỏ chuông tích hợp không thể tháo rời. Tất cả các xe Series 1 đều được trang bị động cơ V12 5,3 lít với công suất 242 mã lực. Động cơ 6 xi-lanh thẳng hàng đáng kính của Jaguar không được cung cấp trong XJS cho đến năm 1983.
XJS là mẫu xe có thiết kế khá bảo thủ nhưng phong cách, có tuổi thọ đặc biệt tốt.
Chevrolet Aerovette - 1976
Là một mẫu xe ý tưởng do Chevrolet tạo ra, bắt đầu là Dự án Thử nghiệm 882 (XP-882) vào cuối những năm 1960.
Nó có cấu hình động cơ giữa sử dụng giá đỡ ngang của động cơ V8. Các kỹ sư của Zora Arkus-Duntov ban đầu đã chế tạo 2 nguyên mẫu XP-882 trong năm 1969 nhưng John DeLorean, tổng giám đốc của Chevrolet, đã hủy bỏ chương trình vì cho rằng nó không thực tế và tốn kém.
Ở mẫu xe năm 1976, động cơ 4 rô-tơ được thay thế bằng động cơ Chevrolet V8 400 cu in (6.600cc), mẫu xe ý tưởng được đặt tên là Aerovette và được chấp thuận sản xuất vào năm 1980. Aerovette có cửa cánh chim gấp đôi. Chiếc xe sản xuất sẽ sử dụng động cơ V8 350 cu in (5.700cc) và có giá từ 15.000 - 18.000 đô la ở thời điểm đó.
Tuy nhiên, sau khi những người ủng hộ chính là Duntov, Bill Mitchell và Ed Cole nghỉ hưu tại General Motors, David R. McLellan quyết định rằng một chiếc xe động cơ trước/giữa sẽ tiết kiệm hơn khi chế tạo nên đã hủy bỏ hoàn toàn chương trình Aerovette. Những chiếc xe động cơ giữa phía sau có doanh số bán kém hơn động cơ trước, điều này cuối cùng đã quyết định số phận của Aerovette, góp phần chấm dứt các kế hoạch sản xuất.
Lotus Esprit - 1976
Lotus Esprit là mẫu xe thể thao được Lotus Cars sản xuất từ năm 1976 - 2004 tại nhà máy Hethel, Anh. Xe có thiết kế động cơ giữa phía sau, dẫn động cầu sau. Cùng với Lotus Elise/Exige, đây là một trong những mẫu xe tồn tại lâu nhất của Lotus.
Esprit được ra mắt vào tháng 10/1975 tại Triển lãm ô tô Paris và đi vào sản xuất trong tháng 6/1976, thay thế cho Europa trong dòng sản phẩm của Lotus. Những mẫu xe đầu tiên này được gọi là Esprits "Series 1" (hoặc S1).
Thân xe bằng sợi thủy tinh hình nêm được lắp trên khung gầm xương sống bằng thép. Sức mạnh đến từ động cơ 4 xi-lanh Lotus 907 1.973cc (120,4 cu in) được đánh giá ở mức 160 mã lực ở phiên bản châu Âu và 140 mã lực ở phiên bản tại Mỹ.
Động cơ được lắp dọc phía sau hành khách và dẫn động bánh sau thông qua hộp số sàn 5 cấp Citroën C35 cũng được sử dụng trong SM và Maserati Merak. Phanh sau được lắp bên trong, theo thông lệ đua xe đương thời. Series 1 thể hiện hiệu suất của Lotus thông qua phương châm trọng lượng nhẹ (dưới 1.000kg).
Hệ thống treo trước bao gồm các tay đòn chữ A trên và các liên kết bên dưới được tạo thành hình tam giác bằng thanh chống lật. Hệ thống treo sau bao gồm các tay đòn hộp thon và các liên kết bên dưới. Các nửa trục không có khả năng đâm xuống và xử lý một số lực bên. Có bộ giảm xóc lò xo và phanh đĩa ở cả bốn góc. Hệ thống lái được điều khiển bằng thanh răng và bánh răng không trợ lực.
Trong khi S1 Esprit được ca ngợi vì khả năng xử lý và được cho là có hệ thống lái tốt nhất trong số tất cả các xe Esprit, thì nhìn chung nó được coi là có công suất thấp bởi các biện pháp kiểm soát khí thải của thập niên 70. Tuyên bố của Lotus về khả năng tăng tốc từ 0 - 100m/h là 6,8 giây và tốc độ tối đa 222km/h.
Esprit được nhiều người biết đến như là phương tiện di chuyển của James Bond trong bộ phim “The Spy Who Loved Me”.