Được mệnh danh là “cổ phiếu vua”, nhóm ngân hàng thường được coi là nhóm dẫn dắt thị trường do đặc thù số lượng cổ phiếu lưu hành lớn, vốn hóa cao. Trong năm 2024, thách thức vẫn hiện hữu đối với nhóm cổ phiếu ngân hàng, nhưng giới phân tích vẫn kỳ vọng tích cực đối với nhóm ngành này. Bởi cổ phiếu ngân hàng đang được định giá hấp dẫn cho các nhà đầu tư dài hạn tích lũy cổ phiếu và có chất lượng tài sản ở mức tốt để có thể vượt qua giai đoạn khó khăn nhằm đón đầu con sóng hồi phục.
ĐỊNH GIÁ HẤP DẪN CHO NHÀ ĐẦU TƯ DÀI HẠN TÍCH LŨY
Mới đây, Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) đã công bố báo cáo cập nhật triển vọng cổ phiếu nhóm ngân hàng. Theo báo cáo, trong quý 3/2023, tăng trưởng lợi nhuận giảm trên diện rộng đã được chứng kiến ở hầu hết các ngân hàng, với tăng trưởng thu nhập của ngành (được tính toán dựa trên 27 ngân hàng niêm yết) ghi nhận đi ngang.
Trong các nhóm, nhóm quốc doanh có kết quả tích cực nhất, với mức tăng trưởng trung bình 8% so với cùng kỳ nhờ tăng trưởng của Vietcombank và VietinBank khi hai ngân hàng kiểm soát được chi phí dự phòng rủi ro, trong khi các ngân hàng nhóm 1 chứng kiến sự sụt giảm mạnh về NIM và các ngân hàng nhóm 2 đối diện với áp lực trích lập ở mức cao.
Nợ xấu của ngành ngân hàng tiếp tục tăng lên mức 2,24% (tăng 16 điểm cơ bản so với quý trước). Tuy nhiên, cũng có sự khác biệt giữa các nhóm ngân hàng khi nhóm quốc doanh có dấu hiệu giảm dần lượng nợ xấu hình thành trong khi sự suy giảm chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại cổ phần vẫn chưa dừng lại trong bối cảnh nhóm khách hàng trung bình và thấp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dấu hiệu chậm lại của kinh tế.
Tổng dư nợ (gốc, lãi) được tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ đã tăng mạnh từ mức 96 nghìn tỷ cuối tháng 7 lên mức 158,6 nghìn tỷ đồng (chiếm 1,24% tỷ trọng tín dụng) tại ngày 31/10.
VDSC dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ đạt mức 11% trên quy mô toàn ngành cho năm 2023 và cải thiện hơn trong năm 2024.
Theo công ty chứng khoán này nhận định, tín dụng liên quan đến bất động sản là động lực chính của tổng tăng trưởng tín dụng trong nhiều năm nên các dự án sắp chào bán vào cuối năm nay và lãi suất giảm mạnh có thể tiếp tục là động lực hỗ trợ thúc đẩy nhu cầu tín dụng yếu hiện tại quay trở lại. Tín dụng liên quan đến bất động sản nhà ở tăng trưởng âm ở mức 1,18% trong quý 3/2023, so với mức tăng trưởng 31% cuối năm 2022.
VDSC cũng kỳ vọng vào triển vọng khả quan hơn của NIM, được hỗ trợ bởi các tín hiệu cắt giảm lãi suất gần đây với việc lãi suất tiền gửi niêm yết toàn ngành đã giảm từ tháng 3, về mức thấp hơn sau đại dịch Covid-19.
Động thái này được kỳ vọng sẽ chính thức giảm áp lực lên chi phí huy động khi các khoản tiền huy động ở mức cao trong quý 4/2022 đáo hạn, tạo tiền đề thuận lợi NIM cân bằng và hoàn tất quá trình tạo đáy. Mặc dù vậy, khả năng phục hồi của NIM cần xét về nhiều yếu tố.
Từ phía huy động, lãi suất huy động hiện nay đang là mức rất thấp, chủ yếu do nhu cầu vốn trong nền kinh tế còn yếu khiến các ngân hàng không có nhiều áp lực trong huy động – tránh được tình trạng cạnh tranh huy động bằng lãi suất – vốn thường thấy trong những giai đoạn nền kinh tế sôi động ở các năm trước.
Bên cạnh đó, mức độ hỗ trợ của Thông tư 26 về việc cho phép tính tiền gửi của Kho bạc Nhà nước vào tỷ lệ LDR sẽ giảm dần từ năm 2024, ít nhiều sẽ khiến áp lực chi phí huy động tăng lan tỏa dần trong hệ thống. Hay nói cách khác, lãi suất huy động có thể sẽ nhích dần lên trong năm 2024, theo cùng tốc độ phục hồi của các hoạt động kinh tế.
Từ phía cho vay, nhu cầu tín dụng cũng sẽ cải thiện tương ứng theo đà hồi phục của kinh tế vĩ mô, sẽ là cơ sở để các ngân hàng thương mại duy trì mức chênh lệch hợp lý giữa lợi suất tài sản sinh lãi và chi phí huy động.
Như vậy, khả năng cải thiện NIM sẽ phụ thuộc vào khả năng kiểm soát nợ xấu và cơ cấu kỳ hạn, lĩnh vực cho vay của từng ngân hàng. Kỳ vọng NIM của ngành sẽ ổn định trong nửa đầu năm và có thể nhích nhẹ trong nửa cuối năm khi các khoản cho vay với lãi suất ưu đãi chuyển dần sang lãi suất thả nổi thực tế.
Các hoạt động ngoài lãi bao gồm thu nhập phí cụ thể là hoạt động banca, thanh toán sẽ phục hồi dần khi có sự hồi phục trở lại của nhu cầu tín dụng. Ngoài ra, hoạt động thu hồi nợ và thanh lý tài sản cũng được kỳ vọng sẽ trở nên sôi động hơn về phía cuối năm 2024 do yếu tố mùa vụ cũng như thị trường bất động sản sôi động hơn. Hai cấu phần nói trên được kỳ vọng sẽ phục hồi theo quý để bù đắp hiệu ứng không còn quá mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán như đã thấy trong quý 3.
Sau khi một số nút thắt liên quan đến bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp được giải tỏa để bảo vệ hệ thống ngân hàng, giá cổ phiếu ngân hàng đã bật tăng trở lại mức bình quân 10 năm.
Tuy nhiên, sự giảm tốc trong bức tranh kết quả kinh doanh năm 2023 đã làm giá cổ phiếu ngân hàng trở lại mức thấp hơn 1 độ lệch chuẩn. Do đó, mặc dù khó khăn phía trước vẫn còn hiện hữu, VDSC nhận định đây là mức định giá hấp dẫn cho các nhà đầu tư dài hạn tích lũy một vài cổ phiếu ngân hàng có chất lượng tài sản ở mức tốt để có thể vượt qua giai đoạn khó khăn nhằm đón đầu sự hồi phục.
CỔ PHIẾU NGÂN HÀNG NÀO TIỀM NĂNG TRONG NĂM 2024?
Mới đây, Công ty Cổ phần Chứng khoán Vietcombank (VCBS) công bố báo cáo triển vọng năm 2024, trong đó nhóm ngân hàng có 3 mã cổ phiếu tiềm năng được xướng tên là MBB, STB và VIB. Cụ thể, VCBS cho rằng MBB có thể đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng trên 20% và tiếp tục được ưu tiên tăng trưởng tín dụng nhanh hơn bình quân ngành khoảng 1,5 - 2 lần, nhờ việc nhận chuyển giao ngân hàng Oceanbank.
Đồng thời, NIM kỳ vọng cải thiện theo đà giảm của chi phí vốn và CASA 34% cao nhất ngành, dự kiến tiếp tục được cải thiện trong năm 2024 nhờ lãi suất tiền gửi có kỳ hạn hạ nhiệt. Cuối cùng là tỷ lệ NPL bảo đảm quanh ngưỡng dưới 2%. Theo đó, VCBS kỳ vọng MBB đạt 25.184 đồng/cổ phiếu, tiềm năng tăng giá 37%.
Kế tiếp là STB, VCBS kỳ vọng Sacombank sẽ đẩy nhanh quá trình đấu giá tài sản đảm bảo là bất động sản và chào bán thành công 32,5% cổ phần STB do VAMC quản lý trong nửa đầu năm sau. Nếu thương vụ này thực hiện thành công, ngân hàng sẽ trở lại với cuộc đua thật mạnh mẽ vì có thể giải quyết cùng lúc 2 vấn đề về nợ xấu tồn đọng và chủ sở hữu. Do đó, VCBS định giá cho STB là 37.719 đồng/cổ phiếu, tiềm năng tăng giá 30%.
Sang năm 2024, VCBS kỳ vọng VIB phát huy hiệu quả từ cơ cấu cho vay bán lẻ. Ngân hàng có hệ số ROE tới 30%, cao bền vững suốt nhiều năm qua. Tính đến hết quý 3/2023, số dư trái phiếu doanh nghiệp đạt gần 835 tỷ đồng, chiếm 0,34% tổng dư nợ tín dụng, áp lực nợ xấu rất thấp. VCBS dự báo VIB có thể tăng giá 23%, đạt 23.596 đồng/cổ phiếu.
Ở một chiều hướng khác, Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) khuyến nghị mua cổ phiếu CTG với giá mục tiêu cho năm 2024 là 40.900 đồng/cổ phiếu. KBSV cho rằng, sang năm 2024, NIM của VietinBank sẽ được cải thiện và đạt 3% nhờ các khoản huy động khách hàng lãi suất cao từ quý 4/2022 đến quý 1/2023 kỳ hạn 6 - 12 tháng đáo hạn; thanh khoản dồi dào sẽ duy trì lãi suất huy động ở mức thấp; CASA được cải thiện.
Trong khi đó, Công ty Cổ phần Chứng khoán VPBank (VPBankS) cho rằng, cổ phiếu VPB đang có nhiều lợi thế để lấy room tăng trưởng tín dụng cao. Trong giai đoạn 2021-2023, ngân hàng này thực hiện hai thương vụ chuyển nhượng vốn có quy mô lớn nhất thị trường tài chính Việt Nam, giúp VPB thu về khoảng 3 tỷ USD, đưa mức CAR của nhà băng theo Basel II có thể đạt trên 18% trong năm 2023, là ngân hàng có mức CAR cao nhất toàn ngành, cũng là ngân hàng có vốn chủ sở hữu dẫn đầu hệ thống. Theo đó, VPBankS khuyến nghị mua cổ phiếu VPB với giá mục tiêu là 26.900 đồng/cổ phiếu, mức kỳ vọng sinh lời là 45%.
Đồng thời, VPBankS cũng cho rằng nên mua cổ phiếu ACB với giá mục tiêu là 26.120 đồng/cổ phiếu, mức kỳ vọng sinh lời là 12% do tỷ lệ cho vay đầu tư bất động sản của ACB tương đối thấp ở mức 1,5% dư nợ, không có trái phiếu doanh nghiệp trong bảng cân đối kế toán, nhằm hạn chế rủi ro đến từ ngành bất động sản. VPBankS kỳ vọng tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng ACB sẽ diễn ra bền bỉ và ổn định trong môi trường có nhiều biến động tiêu cực tới kinh tế như hiện tại.