Ngày 25/8, Cơ quan Cảnh sát điều tra (C01 - Bộ Công an) thông báo đã ra quyết định khởi tố bổ sung với ông Trịnh Văn Quyết cùng hai em gái là Trịnh Thị Thúy Nga và Trịnh Thị Minh Huệ để điều tra tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo khoản 4 điều 174 Bộ luật Hình sự.
Cùng tội danh, C01 khởi tố bà Hương Trần Kiều Dung, cựu Phó chủ tịch thường trực HĐQT tập đoàn FLC. Bốn người này bị điều tra hành vi nâng khống vốn của Công ty cổ phần Xây dựng FLC Faros và các công ty có liên quan.
Cơ quan điều tra cáo buộc từ năm 2014 đến năm 2016 ông đã chiếm đoạt tiền của các nhà đầu tư khi làm thủ tục tăng vốn điều lệ khống từ 1,5 tỷ đồng lên 4.300 tỷ đồng tương ứng với 430 triệu cổ phần của Công ty CP Xây dựng Faros (mã cổ phiếu là ROS) và niêm yết 430 triệu cổ phiếu ROS trên sàn chứng khoán.
Với diễn biến tố tụng hiện nay thì đây là quan điểm của cơ quan điều tra và viện kiểm sát. Pháp luật quy định cơ quan điều tra có quyền ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhưng cũng có trách nhiệm phải thu thập các tài liệu chứng cứ theo trình tự, thủ tục luật định để chứng minh tội phạm.
Để chứng minh ông Trịnh Văn Quyết và các đồng phạm phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cơ quan điều tra cần phải chứng minh các bị can đã có thủ đoạn gian dối nhầm chiếm đoạt tài sản của các nhà đầu tư. Thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản sẽ khác với những vi phạm về mặt hành chính trong việc thực hiện thủ tục tăng vốn điều lệ, thu hút đầu tư nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án này, cơ quan điều tra sẽ thu thập các tài liệu chứng cứ chứng minh là mục đích chiếm đoạt tài sản có trước thời điểm thực hiện thủ đoạn gian dối. Cơ quan điều tra cần chứng minh các bị can đã có mục đích chiếm đoạt tài sản của những người bị hại từ trước nên đã đưa ra những thông tin gian dối, thông tin sai sự thật hoặc có những thủ đoạn khác khiến cho người bị hại hiểu lầm về bản chất của giao dịch, của hoạt động đầu tư để trao tài sản cho các bị can, sau đó bị can chiếm đoạt, không trả lại tài sản cho người bị hại.
Có hai vấn đề quan trọng mà cơ quan điều tra có nghĩa vụ phải chứng minh để buộc tội đối với các bị can đó là thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối phải thể hiện bằng hành vi gian dối, hành vi đưa tin sai sự thật làm cho người bị hại hiểu lầm, tin tưởng rồi trao tài sản và vấn đề thứ hai là yếu tố chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt tài sản thể hiện thông qua hành vi nhận tài sản của người bị hại rồi không trả lại người bị hại, đã biến tài sản của người bị hại thành tài sản của các bị can. Vấn đề này cơ quan tố tụng có trách nhiệm phải chứng minh bằng những chứng cứ khách quan và phải thu thập theo trình tự thủ tục luật định.
Cơ quan điều tra cũng có trách nhiệm phải làm rõ thông tin, danh tính của những người bị hại, làm rõ những số tiền cụ thể mà từng người bị hại đã bị chiếm đoạt, thời điểm chiếm đoạt, phương thức thủ đoạn chiếm đoạt và đặc biệt là thủ đoạn gian dối với mục đích để chiếm đoạt tài sản do ai thực hiện, thực hiện từ khi nào, bằng phương pháp nào. Trong vụ án có đồng phạm thì cơ quan điều tra cũng cần thu thập các tài liệu chứng cứ để chứng minh có sự bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bị can trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Trường hợp căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ thì viện kiểm sát xét phê chuẩn các quyết định này và phối hợp với cơ quan điều tra để tiến hành điều tra làm sáng tỏ nguyên nhân, động cơ thực hiện hành vi phạm tội, làm rõ hành vi của từng bị can, đánh giá tính chất mức độ của hành vi, thu thập các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự làm căn cứ để tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thời điểm này còn quá sớm để nói về hình phạt đối với các bị can. Tuy nhiên theo quy trình tố tụng hình sự thì quá trình tố tụng hình sự có thể diễn ra theo ba giai đoạn là điều tra, truy tố và xét xử. Trường hợp các bị can bị cơ quan điều tra kết luận là đã thực hiện hành vi phạm tội, bị đề nghị truy tố và viện kiểm sát ban hành cáo trạng để truy tố đối với các bị can thì tòa án sẽ tiến hành xét xử vụ án hình sự.
Nếu kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa cho thấy các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập hợp pháp và được làm sáng tỏ tại phiên tòa thì tòa án có thể ban hành bản án hình sự kết tội đối với các bị cáo. Khi tòa án ban hành bản án kết tội đối với bị cáo thì hình phạt sẽ được đặt ra. Còn trường hợp quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà không đủ căn cứ để buộc tội đối với các bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể đình chỉ điều tra đối với bị can, bị cáo hoặc tuyên bố bị can bị cáo không phạm tội.
Trong vụ án này, trường hợp các bị can bị buộc tội thêm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì hình phạt đối với bị can trong vụ án này là rất nghiêm khắc, có thể mức hình phạt cao nhất sẽ là 20 năm tù hoặc tù chung thân.
Trường hợp bị kết án về hai tội danh là tội thao túng thị trường chứng khoán và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cả hai tội danh này đều là mức hình phạt tù có thời hạn thì tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc hình phạt chung sẽ là tổng cộng của các tội danh nhưng không quá 30 năm tù. Nếu người nào bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức hình phạt cao nhất là tù chung thân thì hình phạt chung của nhiều tội danh sẽ là tù chung thân. Vấn đề này cơ quan tố tụng sẽ tiếp tục điều tra làm rõ để có kết luận và chỉ có tòa án mới có quyền kết tội, mới có thẩm quyền xác định các bị can, bị cáo có tội hay không, khi đó vấn đề hình phạt mới được đặt ra.
Vụ án này rất phức tạp, liên quan đến nhiều bị can, nhiều người liên quan và rất nhiều người bị hại. Các tài liệu chứng cứ để chứng minh thủ đoạn gian dối của các bị can là rất phức tạp, có thể còn những quan điểm khác nhau. Bởi vậy cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ vụ việc, thu thập các tài liệu chứng cứ để chứng minh bản chất khách quan của sự việc, từ đó có căn cứ để kiến nghị với các cơ quan áp dụng pháp luật đảm bảo công bằng đối với các bị cáo, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của các tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật.
Trong vụ án này, có rất nhiều cán bộ, công nhân viên, các cổ đông, các nhà đầu tư có liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra sẽ làm rõ nhận thức, hành vi, vai trò của từng người để đánh giá, phân loại, xác định ai là bị can, ai là bị hại, ai là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Nếu có căn cứ chứng minh những thành viên góp vốn, những người tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp đã có hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý hình sự thì cơ quan điều tra sẽ tiếp tục mở rộng điều tra, xử lý đối với những người này.
Còn trường hợp những người tham gia tham gia góp vốn, tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp nhưng không bàn bạc thống nhất với các bị can khác thực hiện hành vi thao túng thị trường chứng khoán hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản, không có cùng ý chí thực hiện hành vi phạm tội đối với các bị can, không có hành vi vi phạm hoặc hành vi vi phạm chưa đến mức phải xử lý hình sự thì cơ quan điều tra cũng sẽ phân loại, kết luận theo nguyên tắc có hành vi vi phạm pháp luật sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý. Nếu những người khác không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cùng ý chí thực hiện hành vi phạm tội đối với các bị can khác hoặc hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì cơ quan điều tra cũng sẽ kết luận và không đề cập xử lý.
Trong vụ án có đồng phạm thì cơ quan điều tra cũng sẽ làm rõ vai trò của các bị can trong đồng phạm theo nguyên tắc người chủ mưu cầm đầu, thực hành tích cực sẽ phải chịu trách nhiệm cao hơn đối với người giúp sức, xúi giục. Với những người tuy có hành vi vi phạm pháp luật phải được xác định là đồng phạm nhưng vai trò là thứ yếu, giúp sức, không đáng kể, phạm tội do bị ép buộc phải bị dụ dỗ thì cũng có thể sẽ được áp dụng các biện pháp khác mà không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vấn đề này được Bộ luật Hình sự quy định tại khoản 2, Điều 8 như sau: "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".
Đối với các bị can, bị cáo bị xác định là thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cơ quan điều tra cũng sẽ làm rõ số tiền bị chiếm đoạt là bao nhiêu tiền, phương thức thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt là gì, hiện nay số tiền chiếm đoạt đang ở đâu, ai là người quản lý sử dụng, có hành vi rửa tiền hay không, có hành vi che giấu, không tố giác tội phạm hay không để xử lý triệt để đối với vụ án này.
Ngoài ra sẽ làm rõ danh tính của từng người bị hại, số tiền mà tình người bị hại bị chiếm đoạt và xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Về nguyên tắc thì bị can, bị cáo chiếm đoạt tài sản, phải có nghĩa vụ bồi thường, khắc phục hậu quả. Những tài sản do phạm tội mà có đều bị truy thu phải thu hồi để trả lại cho người bị hại. Xác định phần trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự đối với từng bị can, bị cáo làm căn cứ cá biệt hóa vai trò đồng phạm cũng như cá biệt hóa trách nhiệm về mặt dân sự trong vụ án hình sự sẽ được cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ và kết luận. Cơ quan điều tra sẽ làm rõ số tiền chiếm đoạt đang ở đâu, đã chuyển hóa thành những tài sản nào, do ai quản lý để áp dụng các biện pháp ngăn chặn như kê biên, phong tỏa, tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Những tài sản mang dấu vết tội phạm, những tài sản do phạm tội mà có được xác định là vật chứng của vụ án hình sự, sẽ được thu giữ, bảo quản, sử lý theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Đây là vụ án phức tạp, liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, liên quan đến nhiều người, nhiều cơ quan tổ chức, bởi vậy cơ quan điều tra sẽ thận trọng xem xét đánh giá, xác định bản chất của vụ án, làm rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định pháp luật.
Tiến sỹ - Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp