Theo dự thảo này, cần thu thuế riêng với chứng khoán phái sinh và áp thuế cao hơn với người có thu nhập từ nền tảng số.
Bởi theo đơn vị soạn thảo, có sự khác biệt về bản chất giữa chứng khoán cơ sở và chứng khoán phái sinh do vậy cần có quy định riêng về thuế đối với chứng khoán phái sinh để phù hợp với bản chất hoạt động kinh doanh, phân biệt với chứng khoán cơ sở, qua đó góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Giá trị của chứng khoán phái sinh phụ thuộc vào giá trị của một hoặc nhiều loại tài sản cơ sở. Do đó, chứng khoán phái sinh không có đầy đủ giá trị nội tại như chứng khoán cơ sở. Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán phái sinh không được hưởng các quyền cổ đông nắm giữ chứng khoán cơ sở, ví dụ, không có quyền tham dự đại hội đồng cổ đông; không có quyền nhận cổ tức.
Hiện, Luật Chứng khoán 2019 đang chưa phân tách rõ ràng thu nhập chịu thuế của chứng khoán cơ sở, chứng khoán phái sinh và cả trái phiếu và các loại chứng khoán khác. Với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán, thu nhập chịu thuế hiện nay được xác định chung theo nguyên tắc là giá chuyển nhượng từng lần với thuế suất 0,1%.
Tuy nhiên, thị trường phái sinh cũng không diễn ra các giao dịch chuyển nhượng toàn bộ giá trị giao dịch và chuyển giao tài sản từ bên bán cho bên mua như thị trường cơ sở (trừ hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ chuyển giao vật chất giữ đến ngày đáo hạn). Giá trị của chứng khoán phái sinh được khuếch đại lên nhiều lần do hệ số nhân hợp đồng khi thiết kế các sản phẩm. Việc thanh toán chuyển giao giữa các nhà đầu tư chỉ là giá trị chênh lệch giá (lãi hoặc lỗ).
Dự thảo cũng chỉ ra rằng, các nền kinh tế trên thế giới (Anh, Pháp, Đức, Lucxembourg, Mỹ, Australia, Nhật Bản, Canada, Thái Lan) đều dần chuyển sang đánh thuế dựa trên thu nhập thực đối với chứng khoán phái sinh.
Nếu áp dụng phương pháp tính thuế trên giá trị giao dịch thì thuế suất phải linh hoạt đối với từng sản phẩm chứng khoán phái sinh (Ấn Độ, Đài Loan), mức thuế suất cũng thấp hơn nhiều lần so với thị trường chứng khoán cơ sở.
Tại Đài Loan, thuế suất trên thị trường phái sinh thấp hơn 150-600 lần so với thuế suất trên thị trường cơ sở. Ấn Độ áp dụng thuế suất 0,01% đối với hợp đồng tương lai, 0,05% với phí quyền chọn, 0,125% khi thực hiện quyền.