Mới đây, Văn phòng Chính phủ vừa ban hành văn bản số 1061/VPCP-CP ngày 18/2/2022, về yêu cầu của Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đối với Bộ Giao thông vận tải khẩn trương rà soát, hoàn thiện các nội dung của Đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không.
Theo đó, về tiêu chí phân loại cảng hàng không, Phó Thủ tướng lưu ý về việc tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan; đánh giá bất cập của các quy định pháp luật liên quan đến đầu tư, quản lý, khai thác cảng hàng không, cơ chế huy động vốn; khả năng huy động vốn xã hội; tác động đối với an ninh, quốc phòng; khó khăn trong tổ chức thực hiện.
Đồng thời, Phó Thủ tướng cũng yêu cầu làm rõ mối quan hệ của Đề án nêu trên với "Đề án phân cấp, phân quyền và giải pháp huy động nguồn lực thực hiện Quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không toàn quốc" để xác định phạm vi, mục tiêu, giải pháp cho phù hợp; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 2/2022.
Trước đó, Bộ Giao thông vận tải có Tờ trình số số 14075/TTr - BGTVT gửi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không.
Đây là đề án được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước rất quan tâm, không chỉ bởi quy mô vốn đầu tư vào các dự án hạ tầng hàng không nằm trong danh mục ưu tiên trong vòng 10 năm lên tới 479.606 tỷ đồng, mà còn là cơ hội tham gia đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) vào các nhà ga hành khách, hàng hóa có độ sinh lời rất cao.
Tại Tờ trình số 14075, Bộ GTVT kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng cho ý kiến về định hướng phân loại hệ thống cảng hàng không và phương án huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không của từng nhóm.
Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với đề án định hướng này, Bộ GTVT sẽ triển khai Đề án Phân cấp, phân quyền và giải pháp huy động nguồn lực thực hiện Quy hoạch Tổng thể hệ thống cảng hàng không toàn quốc để cụ thể hóa mô hình quản lý, phân cấp quản lý, giải pháp cụ thể huy động nguồn vốn, cơ chế chính sách, lộ trình thực hiện và đề xuất kiến nghị cấp có thẩm quyền cho ý kiến hoặc quyết định từng nội dung cụ thể.
Điểm nhấn quan trọng đầu tiên tại Tờ trình số 14075 là việc Bộ GTVT thống nhất lựa chọn hình thức đầu tư PPP sử dụng tài sản kết cấu hạ tầng hàng không hiện có để tham gia dự án theo Luật Đầu tư theo phương thức PPP để huy động nguồn vốn xã hội.
Trong đó, Bộ Giao thông vận tải đề xuất phân loại hệ thống cảng hàng không thành 5 nhóm, làm cơ sở định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không.
Nhóm 1 gồm: Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Long Thành, Tân Sơn Nhất. Bộ Giao thông cho rằng đây là những cảng hàng không quốc tế quan trọng của quốc gia, đóng vai trò gom hành khách, hàng hóa để kết nối với mạng đường bay nội địa và quốc tế; là các cảng hàng không quốc tế lớn có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 25 triệu hành khách/năm, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Nhóm 2 gồm: Thọ Xuân, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa. Đây là những cảng hàng không có hoạt động quân sự, huấn luyện quân sự thường xuyên, tài sản và đất đai khu bay do Bộ Quốc phòng quản lý.
Nhóm 3 gồm: Điện Biên, Nà Sản, Đồng Hới, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc và Côn Đảo. Theo Bộ Giao thông vận tải, đây là những sân bay ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, cân đối thu chi khó khăn, có công suất quy hoạch đến năm 2030 nhỏ hơn 5 triệu hành khách/năm (trừ sân bay Phú Quốc).
Nhóm 4 gồm: Cát Bi, Vinh, Phú Bài, Liên Khương và Cần Thơ. Đây là các cảng hàng không có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 5 triệu hành khách/năm, có tiềm năng phát triển, có khả năng thu hút các nhà đầu tư và không có hoạt động quân sự thường xuyên.
Nhóm 5: là những cảng hàng không mới, gồm Sa Pa, Quảng Trị, Lai Châu và các cảng hàng không tiềm năng như Cao Bằng, Hải Phòng (Tiên Lãng), cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô.
Bộ Giao thông vận tải đề xuất huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ cảng hàng không theo hình thức PPP. Bộ cũng đề xuất giao UBND các tỉnh có quy hoạch cảng hàng không mới là cơ quan có thẩm quyền đầu tư theo hình thức PPP, chủ động huy động, cân đối nguồn lực và tổ chức thực hiện đầu tư.