Tổng thống Donald Trump đã đúng khi nói rằng Nhật Bản và châu Âu mua rất ít ô tô sản xuất tại Mỹ, tuy nhiên, nguyên nhân không hề nằm ở rào cản thương mại. Từ Tokyo đến London, đa số người tiêu dùng cho rằng xe Mỹ (được sản xuất tại Detroit) thường có kích thước quá lớn và tiêu tốn nhiều nhiên liệu.
Chính quan điểm đó đã khiến những chiếc Chevrolet hay Cadillac khó tiêu thụ và trở thành hình ảnh hiếm hoi trên đường phố nước ngoài, đặc biệt là những nơi mà các dòng xe nhỏ gọn như Toyota Corolla, Honda Civic, Volkswagen Golf hay Renault Clio vô cùng phổ biến.
“ĐIỂM TRỪ” CỦA XE MỸ
Trong số 3,7 triệu ô tô mới được bán ra tại Nhật Bản năm 2024, một phần ba là xe mini hoặc “kei car” - những mẫu xe nhỏ gọn, tiết kiệm nhiên liệu và không do các hãng xe Mỹ sản xuất. Theo Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản, ô tô nước ngoài chỉ chiếm 6% tổng doanh số.
Trong đó, chỉ có khoảng 570 chiếc Chevrolet, 450 chiếc Cadillac và 120 chiếc Dodge được bán ra, theo số liệu từ Hiệp hội.
Hãng Ford đã rút khỏi thị trường Nhật gần một thập kỷ trước. Trong khi đó, Tesla, với thiết kế hiện đại hơn một số dòng xe từ Detroit, ngày càng được ưa chuộng, dù dữ liệu không công bố doanh số cụ thể của hãng xe điện này.
Về phía mình, Tổng thống Mỹ Donald Trump nhiều lần chỉ trích việc Nhật Bản và châu Âu "từ chối" xe Mỹ, trong khi lại bán hàng triệu ô tô mỗi năm vào thị trường Mỹ. Do đó, trong các hiệp định thương mại gần đây, cả hai thị trường này đã đồng ý bãi bỏ hoặc nới lỏng các bài kiểm tra an toàn với xe nhập khẩu từ Mỹ. Châu Âu thậm chí còn giảm thuế nhập khẩu đối với ô tô Mỹ.
Nhưng chỉ từng đó thay đổi về quy định và giảm thuế quan vẫn chưa đủ để thuyết phục người tiêu dùng Nhật Bản và châu Âu, những người vốn quen với hệ thống đường sá chật hẹp và bãi đỗ xe khan hiếm, chấp nhận những dòng xe lớn như Ford F-150 hay Cadillac Escalade.
“Xe Mỹ được thiết kế cho đường rộng và cao tốc, nên điều khiển chúng trên các con phố chật hẹp ở Nhật đòi hỏi kỹ năng”, ông Yumihito Yasue, chủ tịch Johnan Jeep Petit tại Tokyo, đơn vị chuyên nhập khẩu và bảo dưỡng xe cổ của Mỹ, cho biết. Khách hàng của ông phần lớn là những người đam mê xe ở độ tuổi 50-60, đã lớn lên cùng những biểu tượng xe Mỹ xuất hiện nhiều trên phim ảnh.
Bản thân ông Yasue thừa hưởng niềm đam mê xe Mỹ từ cha mình, người đã thành lập công ty cách đây 40 năm và thường sang California để “săn” xe. Sau khi cha mất cách đây 9 năm, ông Yasue tiếp quản công việc kinh doanh. Mỗi năm, công ty của ông bán được khoảng 20 xe. “Điểm đặc biệt của xe Mỹ là thiết kế. So với xe Nhật hay xe Đức, hình dáng thân xe Mỹ đẹp hơn nhiều, đặc biệt là các đường cong phía sau và hốc bánh xe”, ông nhận định.
Tại châu Âu, một số mẫu xe cỡ nhỏ của Mỹ sản xuất nội địa đã đạt được thành công, như Ford Puma, mẫu xe bán chạy nhất, và dòng Fiesta trước đây. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ qua, Ford và General Motors lại chuyển hướng sang các dòng bán tải và SUV cỡ lớn, loại xe không phù hợp với đường phố nhỏ hẹp và thói quen sử dụng xe tại châu Âu.
Ford, từng là thương hiệu lớn tại châu Âu từ đầu thế kỷ 20, đã chứng kiến doanh số tại khu vực này giảm mạnh từ 1,26 triệu xe vào năm 2005 xuống chỉ còn 426.000 xe vào năm 2024. Thị phần cũng tụt từ 8,3% xuống còn 3,3%, theo dữ liệu từ Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô châu Âu (ACEA).
“Người Châu Âu không mua Ford F-150, đó không phải là loại xe phù hợp với đường sá tại đây và cũng không phải là điều khách hàng châu Âu mong muốn”, Andy Palmer, cựu CEO của Aston Martin chia sẻ với Reuters.
GM rút khỏi châu Âu vào năm 2017 sau khi bán lại thương hiệu Opel và dừng kinh doanh Chevrolet, nhưng đã quay trở lại vào năm ngoái với mẫu Cadillac Lyriq, dòng SUV điện sản xuất tại Mỹ. Tuy nhiên, hãng chỉ bán được 1.514 xe, theo dữ liệu từ công ty phân tích ô tô Jato.
Người phát ngôn của GM cho biết Cadillac đang mở rộng danh mục xe điện tại châu Âu và được đón nhận tích cực ở các thị trường đã ra mắt. Ford thì cho biết họ xuất khẩu những dòng xe biểu tượng như Bronco và Mustang sang châu Âu, bên cạnh các mẫu xe sản xuất tại địa phương phù hợp với thị trường.
Tại London, đại lý xe chuyên bán các mẫu xe sang của Mỹ Clive Sutton chia sẻ rằng khách hàng của họ bị thu hút bởi sự hiếm hoi và đẳng cấp mà các mẫu xe như Cadillac Escalade mang lại. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng việc đạt mục tiêu doanh số luôn là một thử thách. “Có những người mua loại xe đó vì sự độc đáo và vị thế mà nó thể hiện. Nhưng để tìm chỗ đậu cho nó, đặc biệt ở trung tâm London, thì chả khác nào nhiệm vụ bất khả thi”, đại diện đại lý bình luận.
CHIẾN LƯỢC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MỸ
Tổng thống Donald Trump cũng từng gây áp lực buộc Hàn Quốc phải mở cửa thị trường cho xe Mỹ, và nhấn mạnh rằng việc miễn thuế nhập khẩu là một phần của thỏa thuận thương mại giữa hai nước được ký gần đây. Ở Hàn Quốc, xe nhập khẩu chỉ chiếm chưa đến 1/5 thị trường, trong khi xe Mỹ chỉ chiếm 16% trong số đó. Phần lớn thị phần bị chiếm giữ bởi các đối thủ Đức, theo dữ liệu từ Hiệp hội nhập khẩu và phân phối ô tô Hàn Quốc.
Tại Nhật Bản, các hãng xe Đức cũng đã xây dựng vị thế vững chắc ở phân khúc xe sang. Mercedes-Benz bán hơn 53.000 xe trong năm ngoái, trở thành thương hiệu nước ngoài phổ biến nhất, tiếp theo là BMW với hơn 35.000 xe. Các hãng xe Nhật cho rằng “đồng nghiệp châu Âu” thành công vì họ đầu tư nghiêm túc cả thời gian lẫn nguồn lực cho thị trường Nhật Bản.
Trong khi đó, các hãng xe Mỹ thường bị gắn với hình ảnh xe vô lăng trái, gây khó khăn cho việc lái xe tại các quốc gia như Nhật Bản, nơi lưu thông bên trái đường.
Dù vậy, một số hãng xe Mỹ đã bắt đầu đưa ra phương hướng điều chỉnh. Từ thế hệ thứ tám ra mắt năm 2021, mẫu Corvette chỉ có phiên bản tay lái bên phải. Theo General Motors, chính vì vậy mà 80% người mua Corvette tại Nhật là khách hàng hoàn toàn mới. Đây cũng là mẫu xe duy nhất của Chevrolet được phân phối chính thức tại Nhật Bản, và doanh số chưa bao giờ vượt quá 1.000 chiếc mỗi năm trong suốt một thập kỷ qua.
Mới đây, GM cũng công bố kế hoạch ra mắt loạt xe Cadillac điện tay lái phải và mẫu Lyriq bắt đầu được giao hàng từ tháng 7 năm nay.
Trong số các thương hiệu Mỹ, Jeep, vốn có các mẫu xe tay lái phải, đã giữ vững vị trí hãng xe Mỹ phổ biến nhất tại Nhật trong hơn một thập kỷ. Hãng bán gần 10.000 xe tại đây trong năm ngoái.
Chị Yukimi Nitta, chủ một salon tóc 42 tuổi, từng lái xe "kei-car” nhưng nay bị thu hút bởi phong cách phóng khoáng, mang đầy nét phiêu lưu của Jeep Wrangler. Hiện tại, chị đang sử dụng chiếc Jeep Wrangler phiên bản giới hạn màu be, chiếc xe thứ hai mà chị sở hữu, và có ý định tiếp tục đổi sang phiên bản màu khác trong tương lai. Mặc dù việc đỗ xe có phần khó khăn, nhưng chị tin là vẫn có thể xoay xở được. Hai người bạn của chị cũng đã mua Wrangler sau khi được Nitta giới thiệu.
“Mọi người thường trầm trồ: ‘Wow, xe ngoại kìa!’ Nhưng khi đã lái thì cảm giác rất bình thường. Tôi mong nhiều người sẽ không ngại thử một lần”, chị Yukimi Nitta.
Dù Wrangler ngốn nhiên liệu, nhưng giá trị bán lại cao giúp việc đổi xe màu khác trở nên khả thi - điều mà nhiều người dùng Jeep tại Nhật thường làm, chị Nitta chia sẻ.
Người phát ngôn của Stellantis, công ty mẹ của Jeep, cho biết hãng thường xuyên tổ chức các sự kiện dành cho chủ xe. Trong tháng 7, hãng đã hợp tác cùng loạt phim "Thế giới khủng long" để tung ra phiên bản giới hạn màu hồng của Wrangler.
Tuy nhiên, các mẫu xe và xe tải cỡ lớn của Mỹ có thể sẽ khó lặp lại thành công của Jeep ở thị trường Nhật Bản.
Daniel Cadwell, một người Mỹ đang sống tại Tokyo, chia sẻ rằng mỗi lần về nước ông đều bị choáng ngợp bởi kích thước xe Mỹ.
“Chúng thật sự quá to. Tôi nghĩ rằng rất khó để thu hút được người tiêu dùng Nhật với những mẫu xe kiểu đó vì thẩm mỹ đơn giản là quá khác nhau”, ông Cadwell, hiện điều hành Javan Imports - công ty chuyên xuất khẩu xe van và xe dã ngoại đã qua sử dụng từ Nhật sang Mỹ, nhận xét.