Đi tìm chìa khoá giúp doanh nghiệp Việt đa dạng hoá chuỗi cung ứng

Việt Nam là quốc gia có nhiều thuận lợi trong phát triển chuỗi cung ứng, điều này càng thể hiện rõ hơn khi các trung tâm của chuỗi cung ứng thế giới và Trung Quốc sang nước ta...

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
vai-tro-cua-van-tai-trong-quan-ly-chuoi-cung-ung-185.jpg
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đang làm thay đổi hoạt động thương mại và đầu tư trên thế giới

Đa dạng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị không chỉ yêu cầu khách quan mà còn là định hướng quan trọng của Đảng, Chính phủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh đến việc tiếp tục phát huy vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong hình thành và mở rộng chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị.

Việt Nam có cơ hội đặc thù để khai thác vị trí của mình trong các giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt vẫn phải chật vật để đa dạng hoá chuỗi cung ứng.

NHIỀU LỢI THẾ NHƯNG DOANH NGHIỆP CÒN KHỔ

Diễn đàn Kinh doanh 2024: “Đa dạng hoá chuỗi cung ứng, phát triển thị trường, nâng cao khả năng thích ứng cho doanh nghiệp”, TS. Nguyễn Tú Anh Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương cho biết, do ảnh hưởng từ những biến động địa chính trị toàn cầu, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng phân cực và dòng vốn đầu tư toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ.

Tại Việt Nam, xu hướng này bắt đầu diễn ra mạnh mẽ từ năm 2022, trong đó, các trung tâm của chuỗi cung ứng thế giới và Trung Quốc sang Việt Nam.

Cụ thể, vốn đầu tư mới từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng từ khoảng 2,3 tỷ USD năm 2019 lên 3,5 tỷ USD vào năm 2023. Về tỷ trọng, vốn đầu tư từ Trung Quốc năm 2019 chiếm 30,9% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, còn năm 2023 đã tăng lên 34%.

Thêm đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đang làm thay đổi hoạt động thương mại và đầu tư trên thế giới. Trước đây, theo mô hình truyền thống khoảng cách địa lý quyết định thương mại đầu tư, hiện nay, thương mại đầu tư không bị ảnh hưởng bởi yếu tố khoảng cách địa lý.

z5575704028403-592f2c087b08c61ea6270540d0779b7b-948.jpg
TS. Nguyễn Tú Anh Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương

Sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện tạo sức bật lớn, giúp thay đổi nhận thức của các nhà đầu tư. Đồng thời đưa Việt Nam đã trở thành trung tâm kết nối trong môi trường nền kinh tế đang phân cực toàn cầu như hiện nay.

Theo vị TS, Việt Nam đang có vị thế đặc biệt và cơ hội lớn kết nối với các xu thế phân cực cũng như kết nối được với các cực. Cùng với dòng vốn từ Trung Quốc đang tăng, dòng vốn từ các nước khác như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian qua. Nhìn từ góc độ nền kinh tế Việt Nam, không có sự phân cực.

Do đó, đây là cơ hội để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu đang rộng mở, Chính phủ đang quyết tâm tập trung cao độ trong việc giải quyết các “nút cổ chai” của nền kinh tế là kết cấu hạ tầng. Hiện nay, Chính phủ và các địa phương đang dồn vốn đầu tư công để nâng cấp kết cấu hạ tầng, cảng biển, đường cao tốc kết nối trực tiếp. Khi các nền tảng đặt ra, tiềm năng phát triển của kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn được mở ra

Những cơ hội lớn đi cùng với một số thách thức, TS. Nguyễn Tú Anh đề cập đến thách thức lớn nhất là nguồn nhân lực. Việt Nam không thừa lao động mà đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề và cả lao động phổ thông.

Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu hút dòng vốn lớn, nhu cầu năng lượng lớn cần cân nhắc. Hơn hết doanh nghiệp Việt không được tiếp nhận nhiều ưu đãi như doanh nghiệp FDI và họ đang thua trên chính sân nhà của mình.

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY

Đồng quan điểm với TS. Nguyễn Tú Anh, ông Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương, Bộ Công Thương cũng nêu rằng, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đa dạng chuỗi cung ứng.

Ngoài những rào cản đã được nêu, ông Hội cho biết thêm, quá trình thực thi, như nhận thức, tư duy, cách nghĩ, tầm nhìn của các nhà làm chính sách chưa được triệt để, thiếu minh bạch và bình đẳng, thiếu tính ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu chặt chẽ trong.

Bên cạnh đó, chính sách thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng thực thi không hiệu quả. Chưa có những cơ chế, chính sách riêng cho khuyến khích phát triển logistics xuất khẩu.

chuoi-cung-ung-va-nhung-van-de-voi-viet-nam-2099.jpg
Cần có cơ chế, chính sách riêng cho khuyến khích phát triển logistics xuất khẩu

Tiếp đó, các chính sách về nguồn lực cần thiết để phát triển xuất khẩu còn thiếu hụt. Sản xuất nguyên liệu, thiết kế, phân phối chưa đồng bộ. Chuỗi sản xuất, xuất khẩu còn gặp vướng mắc theo các quy định của pháp luật hiện hành. Nhận thức và năng lực thực thi chính sách thúc đẩy xuất khẩu từ phía các doanh nghiệp cũng là hạn chế.

Bởi thế, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công thương đề nghị cần định hướng hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp gia nhập sâu và giá trị hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đầu tiên là tổ chức các hội chợ triển lãm, xúc tiến thương mại, đầu tư, phát triển thị trường, đa dạng hóa hình thức quảng bá, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu.

Thứ hai là xây dựng và phát triển các thương hiệu. Nhận thức cho các doanh nghiệp về lao động, môi trường… trong các FTAs.

Cuối cùng, nâng cao quy tắc xuất xứ, phòng vệ thương mại và doanh nghiệp cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.

Thứ tư, xây dựng hàng rào kỹ thuật như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật nhập khẩu, kiện chống bán phá giá, đánh thuế môi trường... để bảo vệ sản xuất trong nước.

GÓC NHÌN CỦA DOANH NGHIỆP

Cũng tại diễn đàn, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hiện Việt Nam đang có khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đang cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang các thị trường chính là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ.

Tuy nhiên trong số khoảng 5.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ này, có khoảng 100 doanh nghiệp trong nước là nhà cung ứng cấp một cho các tập đoàn đa quốc gia; khoảng 700 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp hai, cấp ba…

“Các quy định về tiêu chuẩn xanh cũng cần được xây dựng nhằm định hướng cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp cũng cần được thực hiện một cách có trọng tâm, trọng điểm để các doanh nghiệp nâng cao năng lực, nâng cao trình độ số hóa, năng lực công nghệ thông tin để đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về các tiêu chuẩn ESG”.

z5575772377621-d1e1cd994b8e6d1b0dfd2ce3253c9dfb-4973.jpg
TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam

Ông Bình nhận định, gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu phụ thuộc nhiều vào nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp. Nhưng những nỗ lực tự thân đó sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều nếu như các điều kiện về thể chế, chính sách, môi trường kinh doanh và quy định pháp luật không tạo ra vướng mắc…

Các doanh nghiệp Việt muốn trở thành nhà cung cấp trong chuỗi giá trị toàn cầu cần được đào tạo và hỗ trợ, xây dựng năng lực để tuân thủ các quy tắc về ứng xử, quy định và tiêu chuẩn là rất quan trọng.

Theo ông Bình, đứng trước yêu cầu mới về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, cần hành động cấp bách để xác lập vị thế trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, và khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục trở lại, cần trả lại không gian cho thị trường và cho các nguyên tắc của cơ chế thị trường.

Các biện pháp mang tính chất bao cấp, hỗ trợ, miễn, giảm đã được thực hiện quá dài cũng phải được “thu lại” hoặc thu hẹp dần về quy mô hay cường độ, nhờ đó thị trường sẽ quay trở lại vận hành đúng như quy luật vốn có của nó…

Vị Giám đốc nhấn mạnh, việc thu lại dần những biện pháp hỗ trợ không có nghĩa là Nhà nước không tiếp tục có những biện pháp kiến tạo cho doanh nghiệp phát triển.

Thay vì các biện pháp hỗ trợ như miễn, giảm, giãn, hoãn trên diện rộng thì nguồn lực từ ngân sách Nhà nước đáng lẽ để dành cho việc này có thể được sử dụng để đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm cho các doanh nghiệp.

Thể chế cần đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai về kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo, các doanh nghiệp, các tổ chức trong các hệ sinh thái của các ngành công nghiệp mới trong tương lai như chất bán dẫn, chip, phương tiện vận tải điện, năng lượng sạch, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo.

“Các chính sách hỗ trợ có tính chất trọng tâm, trọng điểm như vậy, đặc biệt là giảm bớt hình thức trợ cấp, hỗ trợ sẽ nâng cao tinh thần tự lực, tự cường của cộng đồng doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp tiên phong, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám dấn thân vào các lĩnh vực mới mà nền kinh tế thực sự cần…”, ông Bình đưa ra quan điểm.

Có thể bạn quan tâm